Bước vào thế kỷ XIII, từ thảo nguyên mênh
mông, lạnh giá vùng Đông Bắc Á, từng đoàn kỵ binh, bộ binh của đế quốc Mông Cổ
(Tác Ta) cuốn theo cát bui, binh đao, đi chinh phạt, xâm lược các nước,
gieo rắc bao đau thương, chết chóc khắp châu Á, châu Âu. Hàng trăm kinh đô,
thành thị, làng mạc bị thiêu đốt, hàng triệu dân thường bị giết hại... Cả thế
giới khí đó quá khiếp sợ trước vó ngựa hung tàn của quân Tác Ta. Thế nhưng vó
ngựa, binh đao, thuyền chiến… của quân Mông Nguyên tàn bạo đã bị quân dân Đại
Việt thời nhà Trần 3 lần chặn đứng trên mảnh đất của kinh đô Thăng Long.
Phác hoạ
chân dung Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn
SỰ HÌNH THÀNH,
PHÁT TRIỂN ĐẾ CHẾ MÔNG CỔ
VÀ THÀNH LẬP
NHÀ NGUYÊN
Năm 1206, đế quốc Mông Cổ thống nhất chính
thức được thành lập, với vị vua đầu tiên Têmujin (mang hiệu Thành Cát Tư Hãn –
nghĩa là vua vĩ đại). Sau khi lên ngôi, Thành Cát Tư Hãn bắt đầu tiến đánh các
nước xung quanh, như Tây Hạ, Kim mở rộng lãnh thổ ra cả vùng Mãnh Châu, chiếm
lấy Bắc Kinh – Trung Quốc. Sau đó, chúng tiếp tục chinh phạt vương quốc
Khôretxmơ và Uốcghentrơ, sau đó tiếp tục tiêu diệt Tan gút. Năm 1227, sau khi
Thành Cát Tư Hãn chết, Ôgôđây (con trai thứ ba của Thành Cát Tư
Hãn) lên ngôi Đại Hãn đã khẩn trương chinh phạt và tiêu diệt được nước
Kim. Năm 1236, quân Mông Cổ tấn công Nam Tống (mất 40 năm); đồng thời trong
giai đoạn này, quân Mông Nguyên cho quân đi chinh phạt các nước châu Âu, như
Vlađimia, Ucraina, Ba Lan, Tiêp, Hunggari… khiến cả châu lục này kinh hoàng,
run sợ. Năm 1241, Ôgôđây chết, sau 5 năm, em trai là Guyúc lên thay. Năm 1248,
Guyúc chết, Mông Ke lên ngôi Đại Hãn. Sau khi lên ngôi, Mông Ke tiếp tục cho
quân đi chinh phạt các nước châu Âu, Trung Á, như Ba Tư, Lưỡng Hà… đồng thời cử
em trai là Hốt Tất Liệt chinh phạt miền Nam Trung Quốc. Năm 1271, Hốt Tất Liệt
diệt được Nam Tống và thành lập triều Nguyên. Đến năm 1279, nhà Nguyên thôn
tính, kiểm soát được toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc.
ĐẠI PHÁ QUÂN
MÔNG (NGUYÊN) LẦN THỨ NHẤT (1258)
Hoàn cảnh lịch sử:
Năm 1252, Đại Hãn Mông Ke cử em trai là
Hốt Tất Liệt đảm đương cuộc chinh phạt Nam Tống theo 4 hướng tiến công. Hướng
thứ 4 do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy, tiến đánh xâm lược Đại Việt, làm bàn đạp
tấn công lên, rồi hợp quân với Hốt Tất Liệt bên Trung Quốc. Ngoài ra, xâm lược
Đại Việt còn có ý nghĩa làm bàn đạp sau này cho quân Nguyên viễn chinh xuống
Đông Nam Á.
Diễn biến quân dân nhà Trần đại phá quân
Mông xâm lược lần thứ nhất (1258):
Thực hiện kế hoạch xâm lược Đại Việt, Ngột
Lương Hợp Thai huy động lực lượng khoảng 4 vạn quân. Cuối năm 1257, toàn bộ
quân giặc tiến đến và đóng quân sát biên giới đông bắc nước ta, sau đó cho sứ
giả đưa thư đe dọa, dụ hàng vua Trần.
Sơ đồ chống quân Mông lần thứ nhất (1258)
Tháng 10/1257, nhận được tin quan chủ trại
Quy Hóa cấp báo về việc sứ giả Mông Cổ đến và quân Mông Cổ đang chuẩn bị xâm
lược, vua Trần Thái Tông xuống chiếu cho các tướng điều binh lên miền biên giới
và ra lệnh cả nước khẩn trương chuẩn bị kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc.
Sau ba lần cử sứ giả đi và không thấy sứ
giả trở về, Ngột Lương Hợp Thai quyết định tấn công vào nước ta. Lực lượng quân
Mông được Ngột Lương Hợp Thai chia ra làm 4 đạo. Đạo quân thứ nhất do Triệt
Triệt Đô chỉ huy và đạo thứ hai do một viên tướng khác chỉ huy tiên phong đi
trước thăm dò, chỉ đường, tiến theo tả ngạn và hữu ngạn sông Thao xuống Bạch
Hạc (Việt Trì – Phú Thọ). Theo sau là đạo quân thứ ba do A Thuật (Con của
Ngột Lương Hợp Thai) chỉ huy. Còn đích thân Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy đạo
quân thứ tư và cũng là lực lượng chủ lực, tiến theo sau.
Đoán trước đường đi tấn công của giặc, vua
tôi nhà trần đã cho quân lập phòng tuyến chống giặc bên kia sông Cà Lồ - con
sông chắn ngang ở Bình Lệ Nguyên (vùng Bình Xuyên – Vĩnh Phúc ngày nay).
Tháng 01/1258, các cánh quân của Mông Cổ
đều hội quân ở Bạch Hạc. Tiếp tục, hai cánh quân thứ nhất và thứ hai tiên phong
đi trước dò đường. Đến Bình Lệ Nguyên, thấy quân ta lập phòng tuyến chặn giặc
bên kia sông, quân giặc cho người quay lại cấp báo với chủ tướng Ngột Lương Hợp
Thai. Ngày 17/01/1258, toàn bộ quân giặc có mặt tại đây. Ngột Lương Hợp Thai
chia quân làm ba đơt, tổ chức vượt sông. Trếch Trếch Đô dẫn đội tiên phong vượt
sông trước, sau đó là đội trung quân do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy; cuối cùng
là A Thuật dẫn đội hậu quân.
Sang sông, thấy vua Trần Thái Tông đích
thân ra trận, Ngột Lương Hợp Thai muốn ăn tươi, nuốt sống quân ta và bắt sống
nhà vua, kết thúc chiến tranh nhanh gọn. Tại đây đã diễn trận đánh quyết liệt
giữa quân dân nhà Trần với quân Mông Cổ. Càng ngày quân giặc càng áp đảo, buộc
quân ta phải rút lui, theo sông Cà Lồ về Phủ Lỗ (Đông Anh – Hà Nội). Để tuột
mất vua Trần, Ngột Lương Hợp Thai nổi giận, đổ tội lỗi lên đầu tên tướng đi
đầu. Quá hoảng sợ, Trếch Trếch Đô đã uống thuốc độc tự tử.
Sau khi, quân giặc đánh vào Phủ Lỗ, quân
ta tiếp tục rút về kinh thành Thăng Long. Quân giặc ào ạt vượt qua các chiến
tuyến, tiến quân và uy hiếp kinh thành. Triều đình và nhân dân tam thời rời
khỏi kinh thành, rút về vùng Thiên Mạc (Duy Tiên – Hà Nam) để xây dựng, củng cố
lực lượng.
Quân Mông Cổ tiến vào một kinh đô vắng
lặng, không một bóng người và không lương thực. Chúng sục sạo khắp nơi, chỉ
thấy trong ngục tối ba tên sứ giá (Một tên đã chết) chúng sai sang trước
đó. Sau mấy ngày chiếm đóng, quân Mông Cổ dần dần lâm vào hoàn cảnh vô cùng khó
khăn. Chúng vừa bị dân binh các làng mạc xung quanh tấn công, đánh phá, quấy
nhiễu, vừa mệt mỏi và ốm đau vì thiếu lương thực, nước uống. Tình cảnh đó đẩy
toàn bộ tướng lĩnh cùng binh lính giặc vào trạng thái hoảng hốt, lo sợ cực đỉnh.
Nắm bắt được tình hình quân giặc, nhận
thấy đây là thời cơ thuận lợi nhất, vua Trần đã quyết định phản công tiêu diệt
quân giặc để giải phóng kinh đô. Từ sông Thiên Mạc, binh thuyền quân dân nhà
Trần tiến ra sông Hồng về Thăng Long. Ngày 19/01/1258, quân ta mở trận phản
công chiến lược đánh vào doanh trại địch ở Đông Bộ Đầu (là vị trí bến sông
Hồng khoảng từ dốc Hàng Than đến dốc Hoè Nhai – quân Ba Đình – Hà Nội). Thua
nặng và bị đánh bật khỏi kinh thành Thăng Long, quân giặc theo sông Hồng tháo
chạy về nước. Dọc đường, chúng tiếp tục bị dân binh các địa phương miền núi
chặn đánh, tiêu diệt gần hết. Số còn lại cùng chủ tướng Ngột Lương Hợp Thai cắm
đầu chạy thoát thân một mạch về nước.
ĐẠI PHÁ QUÂN
MÔNG - NGUYÊN LẦN THỨ HAI (1285)
Mục đích, chủ trương xâm lược của quân
Mông – Nguyên:
Năm 1271, quân Mông Cổ thôn tính xong Nam
Tống, lập ra triều Nguyên. Từ khi thành lập, triều Nguyên luôn nôn nóng thực
hiện kế hoạch xâm lược nước ta một lần nữa, nhằm rửa nhục cho trận thua lần
trước cách đấy hơn 10 năm. Nhất là từ khi vua Trần Nhân Tông khước từ trắng
trợn việc vua Nguyên là Hốt Tất Liệt phong Đại Việt là An Nam tuyên uý ti (đầu
năm 1282) dưới quyền cai trị của nhà Nguyên, thì dã tâm xâm lược của chúng càng
tăng lên. Đặc biệt hơn nữa là xâm lược Đại Việt lần này, Hốt Tất Liệt muốn dùng
nước ta làm bàn đạp để đánh chiếm Cham Pa, viễn chinh xâm chiếm các nước Đông
Nam Á, thể hiện quyền bá chủ thế giới của đế quốc Tác Ta.
Rút kinh nghiệm từ thất bại lần xâm lược
trước, Hốt Tất Liệt huy động lực lượng rất lớn, với tổng số khoảng 50 vạn
quân (Theo Đại Việt sử ký toàn thư) và giao quyền chỉ huy tối cao cho
con trai là Thoát Hoan. Phụ tống chỉ huy cùng Thoát Hoan còn có viên tướng lão
luyện, nổi tiếng hung tàn, được xếp vào hàng công thần lập quốc của nhà Nguyên
là A Lí Hải Nha. Nhằm tiêu diệt nhanh gọn quân dân Đại Việt, quân Nguyên chủ
trương tấn công vào nước ta từ 3 hướng, tạo thành thế gọng kìm, bóp chặt từ
biên giới phía bắc và phía nam. Phía bắc, quân giặc chia làm hai đạo: một đạo
do Thoát Hoan và A Lí Hải Nha chỉ huy, một đạo do Nạp Tốc Lạt Dinh chỉ huỷ tiến
quân vào; còn phía nam, đạo quân của Toa Đô đang chiếm đóng Cham Pa tấn công từ
phía nam nước ta.
Chủ trương chống xâm lược của quân dân nhà
Trần:
Cuối năm 1282, vua Trần triệu tập Hội nghị
Bình Than (Bình Than là bến sông lớn ở cửa sông Đuống đổ vào sông Lục Đầu
- nay thuộc xã Đại Than, Gia Lương, Bắc Ninh) với các vương hầu, quan lại,
võ tướng trong triều bàn kế giữ nước. Hội nghị đã thống nhất đề cử Hưng Đạo
vương Trần Quốc Tuấn giữ chức Quốc công tiết chế thống lĩnh quân đội cả nước;
Chiêu Minh vương Trần Quang Khải giữ chức Thượng tướng thái sư; đồng thời phân
công các tướng lĩnh đem quân trấn giữ những nơi hiểm yếu.
Để hiệu triệu quân dân cả nước chung sức
bảo vệ Tổ quốc, Trần Quốc Tuấn đã ra Hịch tướng sĩ. Toàn văn bài hịch là lời
hiệu triệu, kêu gọi thiết tha, tràn đầy tinh thần yêu nước, ý chí căm thù giặc
sâu sắc; là đại diện cho tinh thần dân tộc của quân dân cả nước vì nền độc lập,
tự do của dân tộc.
Tiếp đó, Thượng hoàng Trần Thánh Tông mở
Hội nghị Diên Hồng với các bậc phụ lão trong nước. Thể hiện quyết tâm đánh giặc
Mông Nguyên, các vị phụ lão đã đồng thanh hô lớn “đánh”. Sách
Đại việt sử ký toàn thư ghi rõ: “Muôn người cùng nói như một miệng sinh
ra”. Hội nghị Diên Hồng là tiếng nói của bách tính, trăm họ, muôn dân về ý
chí của dân tộc trước hoạ xâm lăng. Qua Hội nghị cho thấy cuộc chiến tranh
chống quân xâm lược Mông Nguyên không phải của riêng triều đình mà là do muôn
dân, trăm họ, bách tính cùng gánh vác. Hội nghị cũng đã thể hiện rõ truyền
thống yêu nước, đoàn kết ngàn đời của dân tộc ta.
Được toàn quyền chỉ huy quân đội cả nước,
Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn đã ban lệnh cho các tướng lĩnh thống lĩnh
từng đơn vị đi trấn giữ, bao vệ từng địa bàn xung yếu: tướng Phạm Ngũ Lão đóng
giữ tại Lạng Sơn; tướng Trần Nhật Duật trấn giữ Tuyên Quang; tướng Trần Văn
Lộng trấn giữ Tam Đái (Vĩnh Phúc). Đại bản doanh của Trần Quốc Tuấn trấn giữ
tại Nội Bàng (Khoảng Chu – Bắc Giang).
Đại phá quân Mông - Nguyên lần thứ hai:
Quân Nguyên truy đuổi hòng bắt vua Trần,
tiêu diệt quân chủ lực của ta:
Đầu năm 1285, các cánh quân địch đã tràn
qua biên giới phía bắc nước ta. Ngày 02/02/1285, quân giặc chia làm 6 mũi tấn
công vào Nội Bàng (Bắc Giang) – đại bản doanh của Trần Quốc Tuấn. Quân giặc quá
đông và mạnh, Trần Quốc Tuấn đã cho quân lùi về Vạn Kiếp (Chí Linh – Hải
Dương). Tại Vạn Kiếp, vua Trần Thánh Tông ra tìm gặp và vờ hỏi Quốc công tiết
chế Trần Quốc Tuấn: “thế giặc như thế, ta phải hàng thôi”. Trần
Quốc Tuấn đáp lời vua Trần rằng: “Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng”.
Lui quân về Vạn Kiếp, Trần Quốc Tuấn huy
động lực lượng khoảng 20 vạn quân. Ngày 11/02/1285, Thoát Hoan điều Ô Mã Nhi
tấn công ở khúc sông Bình Than (Vạn Kiếp). Cuộc chiến đầu diễn ra quyết liệt,
kéo dài bốn ngay. Sau đó, Vua Trần và Trần Quốc Tuấn chỉ huy quân rút khỏi Vạn
Kiếp, theo sông xuôi về Thăng Long. Ngày 17/02, quân Ô Ma Nhi tấn công vào bờ
bắc sông Hồng. Ngày 18/02, quân ta chặn đánh địch tại đây, sau đó tạm thời rút
khỏi kinh thành Thăng Long (Cũng thời điểm này, cánh quân thứ 3 của địch do Nạp
Tốc Lạt Dinh chỉ huy từ Vân Nam đã tràn vào nước ta. Tướng Trần Nhật Duật cho
quân ra chặn đánh quyết liệt. Sau vài trận, Trần Nhật Duật cho quân rút lui an
toàn về hội quân với vua Trần và Trần Quốc Tuấn).
Thấy vua Trần bỏ thành, Thoát Hoan cho
quân truy đuổi. Đến vùng Thiên Mạc (Duy Tiên – Ha Nam), tướng Trần Bình Trong
thúc toàn quân của mình ra chặn giặc, bảo vệ nhà vua rút lui an toàn về Thiên
Trường (Nam Định). Vì quân giặc quá đông, ông đã bị giặc bắt. Địch dùng mọi thủ
đoạn dụ dỗ và cực hình nhằm mua chuộc Trần Bình Trọng, nhưng ông thẳng thắn nói
rằng: “Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” (Ngày
26/02/1285, quân giặc giết chết ông).
Không bắt được vua Trần và tiêu diệt quân
chủ lực của ta, Thoát Hoán ban lệnh cho các tướng dựng hệ thống đồn trại từ
biên giới Lang Sơn về xuôi, cứ 30 dặm đóng một trạm, 60 dặm đóng một trạm ngựa;
mỗi trạm có khoảng 300 quân canh phòng, tuần tra nghiêm ngặt… Việc phân tán
đóng quân thành các đồn trại như vậy đã tạo điều kiện thuân lợi và là mục tiêu
cho lực lượng dân binh các địa phương của ta tấn công bao vậy, tiêu diệt hao
sinh lực địch…
Năm bắt được tình hình như vậy, Trần Quốn
Tuấn và Phạm Ngũ Lão cho quân lên chiếm lại Vạn Kiếp; đồng thời để củng cố phía
Nam, vua Trần và Trần Quốc Tuấn cử tướng Trần Nhật Duật vào trấn giữ Nghệ An,
tướng Trần Kiện trấn giữ Thanh Hoá (Trần Kiện sau đó đầu hàng địch). Thấy
quân ta chiếm Vạn Kiếp, Thoát Hoan bắt đầu hoảng sợ, liền gửi thư về nước cầu
thêm viện binh.
Ở phía Nam, tháng 02/1285, quân của Toa Đô
tấn công Nghệ An. Vừa mới vào, quân ta do Trần Nhật Duật chống cự không nổi,
tướng Trần Quang Khai vào tiếp ứng nhưng không kịp. Sau khi chiếm được Nghệ An,
Toa Đô tấn công ra Thanh Hoá. Bọn Trần Kiện và Lê Trắc đầu hàng và chỉ đường
cho giặc. Tướng Trần Quan Khai cùng nhiều tướng lĩnh khác và nhân dân Thanh Hoá
tổ chức đánh địch kiên cường để bảo vệ làng mạc và chặn đường tiến quân của
chúng. Vì quân địch quá mạnh, tướng Trần Quang Khải tạm thời cho quân rút lui.
Tháng 3/1285, quân ta tiến về để chiếm lại
thành Thăng Long, nhưng liệu thế không được lại rút về Thiên Trường. Thấy vậy,
Trần Quốc Tuấn rút từ Vạn Kiếp về Thiên Trường; vua Trần và quân ta theo sông
Hồng ra cửa Giao Thuỷ (ở Nam Định) ngược lên về Tam Trĩ1, về Thuỷ
Chú (đều thuộc Quảng Ninh) để đánh lừa quân giặc, sau đó ra cửa Nam Triệu về
Thanh Hoá.
Cùng lúc đó, quân của Toa Đô tiến ra
Trường Yên (Ninh Bình) với tình trạng mệt mỏi, khốn quẫn vì bệnh tật, thiếu
lương thực… Thoát Hoan vội ra lệnh cho Toa Đô cùng Ô Mã Nhi hộ tống tiến vào
Thanh Hoá đuổi bắt vua Trần. Toa Đô gượng gạo nhận mệnh lệnh lên đường.
Quân dân ta phản công tiêu diệt quân giặc:
Sau nhiều ngày vào nước ta, không thể thực
hiện được mục tiêu bắt vua Trần, diệt quân chủ lực của ta, toàn bộ quân Nguyên
đến thời điểm này đều rơi vào trạng thái vô cùng khó khăn và hoảng loạn, vì mệt
mỏi, ốm yếu bệnh tật, thiếu ăn, thời tiết khắc nghiệt. Nắm bắt được tình hình
như vậy, tháng 5/1285, Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn cùng Chiêu minh vương Trần
Quang Khai, Chiêu văn vương Trần Nhật Duật và các tướng lính điều binh thuyên
tiến quân ra bắc, chuẩn bị phản công tiêu diệt quân giặc.
Sơ đồ chống quân Mông Nguyên lần thứ hai (1285)
Ở Thăng Long, quân địch đóng ở 2 vị trí
chủ chốt. Vị trí chủ đạo là đạo quân do Thoát Hoan chỉ huy đóng ở kinh thành
Thăng Long; vị trí dọc sông Hồng (Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương…) là toán quân
của Toa Đô nhưng do Giảo Kỳ chỉ huy.
Phân tích tình hinh và lực lượng quân
giặc, Trần Quốc Tuấn nhận định rằng muốn tiêu diệt triệt để quân địch, trước
tiên phải diệt được các đồn trại địch ở dọc sông Hồng, nhằm chia cắt, cô lập
cánh quân của Thoát Hoan với cánh quân của Toa Đô, đẩy chúng vào thế hoàn toàn
bị động. Trên cơ sở đó, Trần Quốc Tuân tự đảm nhận nhiệm vụ dẫn quân lên Vạn
Kiếp diệt giặc trên đường rút chạy và cầm đại quân diệt địch; đồng thời phân
công các tướng Trần Quang Khải và Trần Nhật Duật chỉ huy đánh vào đồn giặc tả,
hữu ngạn sông Hồng.
Mở đầu trận phản công, trên đường lên Vạn
Kiếp, quân Trần Quốc Tuấn tấn công vào đồn A Lỗ (mạn sông Luộc giao với sông
Hồng). Tướng giặc Lưu Thế Anh bỏ chạy về Thăng Long hội quân với Thoát Hoan.
Cuối tháng 5/1285, các tướng Trần Quang
Khai và Trần Nhật Duật chỉ huy quân đánh vào các đồn địch ở dọc sông Hồng.
Trong đó, Chiêu Thành vương (không rõ tên tuổi) và tướng Nguyễn Khoái và Trần
Quốc Toản chỉ huy quân tiêu diệt địch ở Tây Kết (Khoái Châu – Hưng Yên); Trần
Nhật Duật dẫn quân đánh vào Hàm Tử (Hưng Yên); đích thân Trần Quang Khai dẫn
đại quân tấn công vào Chương Dương (thuộc Thường Tín – Hà Nội; bên hữu ngạn
sông Hồng, đối diện với Hàm Tử).
Bị thua nặng ở Tây Kết, Hàm Tử và Chương
Dương, quân giặc rút chạy về Thăng Long. Thừa thắng, các binh đoàn quân thuỷ bộ
của ta tiến về vây, áp sát kinh thành. Trước tình cảnh nguy khốn, các cánh quân
địch liều chết phá vòng vây chạy sang Gia Lâm, sau đó rút chạy. Kinh thành
Thăng Long được giải phóng.
Cánh quân của Thoát Hoan rút chạy về Vạn
Kiếp. Trên đương rút chạy, chúng bị quân của Trần Quốc Tuấn chặn, đánh cho tơi
tả ở vùng Quế Võ (Bắc Ninh), buộc chúng phải rút sang phía sông Như Nguyệt (Bắc
Ninh). Khi đang vượt sông, quân giặc bị quân của Trần Quốc Toản đổ ra tấn công
bất ngờ, nên gặp tổn thất nặng nề. Bị thua nặng, Thoát Hoãn dẫn quân chạy đến
Vạn Kiếp thì sa vào cạm bẫy phục kích của Trần Quốc Tuấn. Đợi khi quân giặc
đang sang sông, toàn bộ quân ta xông lên tiêu diệt. Quân giặc hoảng loạn, xô
đẩy nhau làm cầu phao bị đứt, rơi xuống sông chết gần hết. Số tàn quân còn lại
vô cùng hoảng loạn, buộc Thoát Hoan phải sai Lý Hằng liều chết mở đường máu
chạy thục mạng về phía Lạng Sơn. Trên đường rút chạy, chúng bị quân ta phục
kích sẵn, bắn tên tẩm thuốc độc xối xả. Hoảng sợ, túng thế, Thoát Hoan phải
chui vào ống đồng để quân khiêng chạy thoát thân; Lý Bằng trúng tên độc và chết
sau đó. Một cánh quân Nguyên khác rút chạy về Vân Nam, đến Phù Ninh (Bắc Ninh) bị
dân binh chặn đánh, phai bỏ chạy tan tác.
Ở mặt trận phía Nam, thấy Thoát Hoan thưa
trận, Toa Đô và Ô Mã Nhi theo đường biển ngược ra sông Hồng. Đến Tây Kết, bị
quân ta chặn, đánh cho tơi tả. Cùng thời gian nay, quân ta do vua Trần chỉ huy
tấn công vào binh thuyền của Toa Đô, tướng giặc Trương Hiền đầu hàng. Toa Đô bị
bắt và chém đầu. Ô Mã Nhi và Lưu Khuê chạy ra biển thoát thân.
Với những trân đánh chiến lược ở Tây Kết,
Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long, Vạn Kiếp, quân và dân ta đã quét sạch 50 vạn
quân Nguyên xâm lược ra khỏi bõ cõi, bảo vệ vững chắc, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ hai.
ĐẠI PHÁ QUÂN
MÔNG - NGUYÊN LẦN THỨ BA (1288)
SÔNG BẠCH ĐẰNG
NHUỘM MÁU QUÂN NGUYÊN
Về lực lượng quân Mông Nguyên:
Hai lần xâm lược là hai lần thất bại nhục
nhã, Hốt Tất Liệt tức tối huỷ bỏ kế hoạch xâm lược Nhật Bản, dồn sức để thực
hiện cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ ba, nhằm phục hận cho những lần
trước. Khác với hai lần trước, thực hiện cuộc viễn chinh lần này, Hốt Tất Liệt
huy động cả thuỷ binh cùng với bộ binh và kỵ binh khá mạnh, với tổng số 30 vạn
quân, tiếp tục do Thoát Hoãn thống lĩnh chỉ huy, chia làm ba đạo: Đạo thứ nhất
(chiếm số đông) do Thoát Hoan chỉ huỷ tiến vào nước ta qua Lạng Sơn; Đạo thứ
hai do Ái Lỗ chỉ huy từ Vân Nam theo sông Hồng tiến vào; Đạo quân thứ 3 là thuỷ
binh do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy với hơn 600 chiến thuyền, từ Quảng Đông
tiến vào sông Bạch Đằng, rồi hội quân ở Vạn Kiếp. Ngoài ra còn có đội thuyền
vận tải do Trương Văn Hồ cầm đầu, chở 70 vạn hộc (Hộc là dụng cụ đong
lường dùng để đong chất hạt rời thời xưa, thường làm bằng gỗ, có dung tích
khoảng 10 lít) lương theo sau.
Chủ trương chống xâm lược của vua tôi nhà
Trần:
Trong cuộc chiến lần này, Hưng đạo vương
Trần Quốc Tuấn tiếp tục được vua Trần và các tướng lĩnh cử làm Quốc công tiết
chế thống lĩnh chỉ huy quân đội cả nước. Qua kinh nghiệm thực tiễn trong hai
cuộc kháng chiến lần trước, ông đề ra kế hoạch đánh giặc rất chủ động và tài
giỏi. Trên cơ sở xem xét tính chất lực lượng quân giặc lần này, ông chủ trương
đề xuất với triều đình cần chú trọng đến mặt trận ven biển đông bắc. Vì đây là
đường hành quân của thuỷ quân giặc và đoàn thuyền vận tải trở lương của chúng.
Trần Quốc Tuấn đã giao cho phó tướng Trần Khánh Dư phụ trách mọi công việc về
biên thuỳ ven biển, tướng Trần Toàn phụ trách nhiệm vụ chặn thuỷ quân giặc.
Ngoài ra, vua tôi nhà Trần tiếp tục thực
hiện chính sách “vườn không nhà trống”, kêu gọi toàn dân cùng tham
gia chống giặc, cất giấu lương thực cắt đứt nguồn tiếp lương cho chúng, tiến
hành tấn công tiêu hao sinh lực địch, đẩy chúng vào thế co cụm, bị động. Tinh
thần của quân dân cả nước khi bước vào kháng chiến lần này với khí thế đầy
quyết tâm và tin tưởng thắng lợi. Tinh thần đó được thể hiện rõ nét qua hội
thoại sau đây giữa Trần Quốc Tuấn với vua Trần: Trần Nhân Tông hỏi “Giặc
đến làm thế nào”, Trần Quốc Tuấn trả lời “Năm nay giặc đến dễ
đánh”.
Diễn biến quân dân nhà Trần đập tan quân
Mông Nguyên xâm lược lần thứ ba:
Quân và dân nhà Trần cắt đứt đường hậu cần
của quân Nguyên, đẩy quân giặc vào thế bị động:
Cuối năm 1287, quân Nguyên từ các hướng
theo kế hoạch đã tiến vào nước ta. Cánh quân của Thoát Hoan nhanh chóng vượt
qua Lạng Sơn, tiến xuống đóng quân ở Vạn Kiếp. Cánh quân địch ở Vân Nam cũng
theo sông Hồng xuôi xuống, bị quân của Trần Nhật Duật chặn đánh ở Bạch Hạc,
xong chúng vẫn phá vỡ được vòng vây, tiến xuống Phú Lương (Thái Nguyên). Ở vùng
biển đông bắc, cánh quân thuỷ do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy vừa vào đến lãnh
thổ nước ta thì bị quân ta do Trần Toàn chặn đánh ở Ngọc Sơn (Mũi Ngọc – Quảng
Ninh). Tuy có nhiều thiệt hại nhưng thuỷ quân giặc đã tiến được vào vùng biển
Hạ Long và An Bang (Quảng Ninh). Tại đây diễn ra trận đánh quyết liệt giữa thuỷ
quân giặc với quân ta do Trần Khánh Dư chỉ huy. Nhưng quân giặc quá mạnh, quân
của Trần Khánh Dư không cản được đạo quân của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp. Sau đó,
thuỷ quân giặc tiến vào sông Bạch Đằng ngược lên hội quân với Thoát Hoan, bỏ
lại đoàn thuyền vận tải trở lương của Trương Văn Hổ còn đang đi phía sau. Chớp
thời cơ này, để chuộc tội với vua Trần, Trần Khánh Dư phục kích đón đánh 70
chiếc thuyền lương giặc ở Vân Đồn – Cửa Lục. Bị tấn công, thuyền địch hoảng hốt
tháo chạy. Quân ta tịch thu được nhiều quân lương, khí giới và bắt nhiều tù
binh.
Chiến thăng Vân Đồn có ảnh hưởng rất lớn
đến chiều hướng phát triển của cuộc chiến tranh sau này. Chiến thắng đó đã đánh
đúng điểm yếu có tính quyết định trong kế hoạch chiến tranh của quân Nguyên.
Khi quân ta đã cắt đứt đường tiếp tế lượng thực của quân giặc sẽ đẩy chúng vào
thế vô cùng khó khăn khi phải kéo dài chiến tranh trên lãnh thổ nước ta đồng
nghĩa đẩy chúng vào thế bị động chiến lược, sẽ tạo điều kiện cho quân ta tổng
phản công tiêu diệt.
Sơ đồ chống quân Mông Nguyên lần thứ ba (1288)
Quân Nguyên lâm vào thế bị động, buộc phải
bàn kế rút quân về nước
Sau khi hội quân ở Vạn Kiếp, Thoát Hoan
cho xây dựng nơi đây thành căn cứ quân sự vững chắc, đồng thời đưa quân tiến về
Thăng Long nhằm bắt vua Trần và tiêu diệt quân chủ lực của ta, buộc quân và dân
ta phải rút khỏi thành, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ phản công. Quân ta bỏ
thành, chúng tiếp tục cho quân đuổi theo nhưng cũng không sao bắt được.
Sau hai tháng chiếm thành, mấy chục vạn
quân Nguyên dần dần lâm vào tình trạng hoang mang lo lắng vì thiếu lương thực.
Chúng mặc sức tàn sát nhân dân và cướp phá, nhưng đi đến đâu cũng gặp vườn
không nhà trống. Âm mưu tiêu diệt nhà vua và quân chủ lực của ta không thực
hiện được, âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh chúng cũng càng không thể.
Quân địch dự đoán không sớm thì muộn quân chủ lực của ta sẽ phản công mạnh mẽ
tiêu diệt chúng. Nhận thấy đóng quân ở Thăng Long rất nguy hiểm, đầu tháng
3/1288, Thoát Hoan và các tướng đã bỏ thành Thăng Long rút quân về Vạn Kiếp –
căn cứ quân sự mà chúng dày công xây dựng. Nhưng căn cứ Vạn Kiếp bây giờ cũng
không còn là nơi an toàn cho chúng nữa. Quân địch bàn với nhau rằng: “Ở
Giao Chỉ không có thành trì để giữ, không có lương thực để ăn, mà thuyền lương
của Trương Văn Hổ không đến. Vả lại khí trời nóng lực, lương hết, quân mệt,
không lấy gì chống giữ được lâu, lấy làm hổ thẹn cho triều đình, chi bằng nên
toàn quân mà về thì hơn”2.
Cuối cùng Thoát Hoan và các tướng lĩnh đã
chọn cách rút quân về nước. Rút kinh nghiệm của hai lần thất bại trước, lần này
quân Nguyên chia làm hai đạo quân theo hai hướng thuỷ, bộ rút quân: Đạo quân thứ
nhất do Thoát Hoan chỉ huy rút theo đường Lạng Sơn có kỵ binh đi trước mở
đường; Đạo quân thứ hai do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy rút theo đường thuỷ
qua sông Bạch Đằng.
Chủ trương của quân dân nhà Trần về tiêu
diệt quân Nguyên trên đương rút quân về nước:
Khi quân giặc tập trung về Vạn Kiếp chuẩn
bị rút về nước, Trần Quốc Tuân nhận định không mở trận tấn công vào Vạn Kiếp để
tiêu diệt mà mở những trận quyết chiến tiêu diệt địch vào lúc chúng đang rút
lui. Chủ trương của Trần Quốc Tuấn khác với nguyên tắc dùng binh trong Binh
Pháp Tôn Tử: “địch rút lui về nước thì đừng bao giờ vây ngăn chặn, bao
vây địch thì cần để trống một mặt, không nên vây kín, địch đến lúc cùng khốn
thì không nên bức bách quá”3. Việc Trần Quốc Tuấn chọn cách lúc
địch rút lui để tiêu diệt gọn là một chủ trương chiến lược đúng đắn, sáng suốt,
phù hợp với tình hình thực tế của cuộc chiến tranh, đánh giá đúng bản chất, âm
mưu quỷ quyệt và ngoan cố của quân thù, chứ không vận dụng cứng nhắc một nguyên
tắc nào của binh pháp. Chủ trương này cũng thể hiện rõ quyết tâm, ý chí của
quân và dân ta phải đánh bại ý xâm lược quân địch, buộc chúng từ bỏ dã tâm muốn
trở lại xâm lược nước ta lần nữa.
Tuy nhiên, yêu cầu đặt ra lúc này của quân
và dân ta là tiêu diệt địch trên cả hai hướng chúng rút chạy hay một hướng và
hướng nào là chủ yếu. Theo các sử liệu ghi chép, lúc rút binh về nước, lực
lượng quân nguyên vẫn xấp xỉ tổng số quân khi chúng tiến vào nước ta là 30 vạn
(tuy có hao tổn nhưng vẫn rất đông). Trong đó bộ binh và kỵ binh là mạnh nhất,
chiếm số đông. Đại bộ phận bộ và kỵ binh quân địch theo Thoát Hoan rút lui theo
đường bộ; còn khoảng 6 vạn quân giặc rút theo đường thuỷ. Và Thoát Hoan cho đạo
quân thuỷ rút lui trước và có đội kỵ binh trên bờ hộ tống đến cửa biển. Quyết
tâm của quân ta là tiêu diệt tối đa cả hai đạo quân địch, không cho chúng thoát
khỏi những đòn phản công chiến lược. Nhưng lực lượng quân ta không cho phép một
lúc đồng thời bố trí hai lực lượng tổ chức hai trận đánh lớn trên hai đường rút
quân tiêu diệt gọn hai đạo quân thuỷ bộ của địch. Trên cơ sở nắm rõ tình hình
lực lượng, hướng rút quân của địch và xuất phát từ tư tưởng “giặc cậy
trường trận ta cậy đoản binh, lấy đoản chế trường”, Trần Quốc Tuấn đề ra
chủ trương trước hết tập trung lực lượng tiêu diệt thật gọn, thật nhanh đạo
quân thuỷ của giặc. Khi đạo quân thuỷ bị tiêu diệt sẽ tác động mạnh mẽ đến tinh
thần chiến đấu của đạo quân bộ địch rút lui sau. Tinh thần chiến đấu của chúng
vốn đã suy yếu sẽ càng bị sụp đổ nhanh. Chúng lâm vào hoảng loạn tháo chạy hỗn
loạn tạo điều kiện cho các cánh quân của ta phục kích tiêu diệt tối đa quân
địch. Như vậy, quân ta có thể tiêu diệt được cả hai đạo quân thuỷ - bộ của quân
Nguyên, trong đó đạo quân thuỷ bị tiêu diệt gọn, toàn bộ; đạo quân bộ thì bị
tiêu diệt từng bộ phận và cuối cùng bị tiêu diệt nặng nề.
Tiếp theo về bố trí lực lượng: đại quân
của vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông chỉ huy kéo về vùng Hiệp Môn (Kinh
Môn – Hải Dương); còn lực lượng chủ lực của Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư
đóng ở Vân Đồn và Yên Hưng (cả hai thuộc Quảng Ninh).
Chọn sông Bạch Đằng là nơi diễn ra trận
quyết chiến chiến lược:
Trên đường rút quân từ Vạn Kiếp ra biển,
nhất định quân giặc phải qua sông Bạch Đằng. Trần Quốc Tuấn quyết định chọn
sông Bạch Đằng là nơi diễn ra trận quyết chiến chiến lược tiêu diệt đạo quân
thuỷ của địch.
Sông Bạch Đằng là con
sông chảy giữa thị xã Quảng Yên (Quảng Ninh) và huyện Thuỷ Nguyên (Hải Phòng),
cách vịnh Hạ Long, Cửa Lục khoảng 40 km, cách Vạn Kiếp – nơi đóng quân của quân
Nguyên khoảng hơn 30 km. Sông Bạch Đằng là cửa ngõ giao thông quan trọng từ
biển Đông vào nước ta. Hạ lưu sông thấp, chịu ảnh hưởng của nước triều khá
mạnh. Khi nước triều lên cao mặt sông ở vùng Tràng Kềnh trải rộng hơn 1.200m,
khi nước triều xuống, nước rặc4, nơi sâu nhất 16m, trung bình lòng
sông sâu 8 đến 11m. Triều lên từ nửa đêm đến sáng, gần trưa thì triều rút mạnh,
chảy rất nhanh. Con sông
này chảy qua một vùng núi non hiểm trở, có nhiều nhánh sông phụ đổ vào. Theo
sông Đá Bạc chảy xuống đến đầu dãy núi Tràng Kềnh, sông Bạch Đằng phình to ra –
đó là nơi tập trung dòng nước của các con sông: Khoai, Xinh bên tả ngạn, sông:
Gia Đước, Thải, Giá bên hữu ngạn đổ về. Đồng thời có sông Chanh, sông Kênh và
sông Rút là chi lưu5 bên tả ngạn đổ nước ra vịnh Hạ Long. Bên
tả phía giữa sông Chanh và sông Rút có bãi đá ngầm – nhân dân gọi là ghềnh Cốc,
với năm cồn đá chắn ngang ¾ sông Bạch Đằng. Ngoài ra địa hình nổi bật của sông
Bạch Đằng là những dãy núi hiểm trở nối tiếp nhau sát hai bên bờ sông, như núi
Tràng Kềnh, núi Áng Hồ, Áng Ngọc, Áng Châu, Áng Táu… Đây thực sự là một địa
hình hiểm yếu giúp quân và dân ta chọn làm nơi trận địa mai phục lý tưởng để
tiêu diệt quân địch. Binh pháp Tôn Tử ghi rõ: “Địa hình là nơi hỗ trợ
cho việc dùng binh. Đoán rõ ý định của địch, nghiên cứu địa hình khó khăn, hiểm
trở, tính toán đường sá xa gần, đặt kế hoạch thắng lợi, đó là chức trách của
người làm tướng”6.
Ngoài việc lợi dụng yếu
tố địa hình làm chướng ngại tự nhiên, để góp phần tiêu diệt quân thù, Trần Quốc
Tuấn còn cho xây dựng các trận địa cọc lợi hại, trong đó tập trung chủ yếu ở
cửa ba nhánh sông đổ ra biển là sông Chanh, sông Kênh, sông Rút (bãi chính là
cửa sông Chanh). Việc xây dựng trận địa cọc này được quân và dân nhà Trần thực
hiện khẩn trương. Trong những tháng ngày gấp gáp, lạnh giá của tháng 3 năm
1288, quân và dân Đại Việt đã đem hết sức mình, bí mật và nhanh chóng chặt hạ
hàng ngàn cây gỗ lim to lớn, sau đó đục đẽo, chỉnh sửa theo yêu cầu, vận
chuyển, cắm xuống ba cửa sông theo kế hoạch đã định. Cả ba bãi cọc phối hợp với
nhau như một tuyến mai phục ngầm, chặn ba cửa sông – ba lối thoát của thuyền
địch từ sông Bạch Đằng ra biển. Ba bãi cọc với hàng ngàn chiếc cọc được tạo nên
bằng trí tuệ và sức lực, tinh yêu nước và quyết tâm chiến thắng của quân và dân
Đại Việt.
Quân dân nhà Trần phản
công tiêu diệt quân địch - sông Bạch Đằng nhuộm máu quân Nguyên:
Cuối tháng 3/1288, từ căn cứ Vạn Kiếp, đạo
quân thuỷ của quân Nguyên do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy bắt đầu rút lui
trước, trên bờ có kỵ binh do Trình Bằng Phi và Đạt Truật hộ tống.
Để góp phần đảm bảo yếu tố bí mật của trận
địa mai phục, quân dân nhà Trần buộc phải tách rời đội kỵ binh địch ra khỏi đạo
quân thuỷ. Để thực hiện điều trên, quân dân nhà Trần đã phá huỷ cầu đường, bố
trí quân chặn đánh, gây khó khăn cho chúng. Đến ngày 4/4/1288, vì quá sợ quân
ta tiêu diệt, đoàn kỵ binh của quân Nguyên đã tự động tìm đường quay trở lại
Vạn Kiếp để kịp theo Thoát Hoan tháo chạy.
Sơ đồ trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng (1288)
Như vậy, quân ta đã tách được đoàn kỵ địch
ra khỏi đạo thuỷ binh của Ô Mã Nhi. Qua nhiều tháng tham chiến ở Đại Việt, đạo
quân thuỷ của Ô Mã Nhi ngày càng mệt mỏi và giờ thì thêm hoang mang, lo sợ.
Chúng hành quân chật vật và khó khăn, liên tiếp bị các cánh quân của ta bố trí
mai phục nhằm kìm hãm bước hành binh của chúng.
Ngày 8/4/1288, địch cho đội tiền vệ do Lưu
Khuê chỉ huỷ đến sông Giá thăm do lực lượng của ta và tìm đường tắt ra biển.
Đến vùng Trúc Động (thuộc Thuỷ Nguyên – Hải Phòng), địch bị quân ta chặn đánh,
tiêu diệt phần lớn; số còn lại buộc phải quay lại hội quân với Ô Mã Nhi.
Mờ sáng ngày 9/4/1288, đạo quân thuỷ của Ô
Mã Nhi đã tiến xuống gần sông Bạch Đằng, đi đầu là đội tiền quân do Phàn Tiếp
chỉ huy. Lúc này là độ nước triều đang chuẩn bị xuống và xuống mạnh vào lúc
giữa trưa. Trên các mỏm núi, trong các nhánh sông, quân và dân ta gươm giáo,
cung, kiếm, gậy gộc đang mai phục, chờ khi nước triều xuống mạnh và binh thuyền
của quân Nguyên lọt vào giữa sông Bạch Đằng là đổ ra quyết chiến.
Để mở đầu trận đánh, Trần Quốc Tuấn cho
một đội thuyền ra khiêu chiến, sau đó giả vờ thua bỏ chạy. Quân địch do Phàn
Tiếp chỉ huy đuổi theo. Đúng lúc này, nước triều bắt đầu xuống mạnh, từ các
nhánh sông, quân ta lao ra, áp sát, đánh vào sườn đội thuyền địch. Bị phục kích
bất ngờ, binh thuyền địch hoảng loạn, Phàn Tiếp cho quân chạy về phía Tràng
Kênh, leo lên chiếm lấy núi cao. Nhưng không ngờ, chúng đã rơi vào trận địa mai
phục của quân dân nhà Trần. Từ trên núi Tràng Kềnh, quân ta lao xuống, hất quân
địch rơi xuống hết đợt này đến đợt khác.
Cùng lúc đó, đạo quân thuỷ chủ lực do Ô Mã
Nhi chỉ huy bắt đầu đổ vào sông Bạch Đằng. Hướng đến bãi ghềnh Cốc, quân địch
cố né bãi ghềnh cạn, dồn đội hình để qua bãi ghềnh sâu. Chớp cơ hội đó, quân ta
với hàng trăm chiến thuyền cùng quân các lộ từ các lạch sông do tướng Nguyễn
Khoái chỉ huy, lao ra tấn công vào giữa đội hình địch. Bị tấn công dữ dội,
nhiều thuyền giặc luống cuống va vào bãi ghềnh cạn, chiếc bị đắm, chiếc bị lật…
những chiếc khác thì dạt sang một bên để thoát chạy. Khi đó các binh thuyền của
ta tả xung hữu đột các phía hướng về phía binh thuyền địch. Thuyền địch dần dần
dạt về bên tả ngạn. Ô Mã Nhi đốc binh thuyền chạy về phía cửa sông Chanh, sông
Kênh và sông Rút nhằm tháo chạy ra biển.
Lúc đó vào gần trưa, nước triều càng xuống
mạnh làm cho các trận địa cọc nằm im lìm dưới lòng sông mênh mông, bỗng dưng
nhô lên như vùng lên cùng quân và dân ta đánh giặc. Bị tả xung hữu đột, nước
triều rút mạnh, binh thuyền giặc lao vào cửa sông càng ngày càng nhanh. Từng
lớp thuyền địch cứ vùn vụt đâm vào các trận địa cọc. Nhiều chiếc bị cọc đâm
thủng, bị đắm hoặc mắc cạn, làm cho toàn bộ thuyền đich dồn tắc lại không thể
đi được. Khi đó từ trên cạn, quân ta lần lượt xả hàng loạt trận mưa tên tẩm
thuốc độc vào quân giặc. Thuyền chiến của ta áp sát, lao vào dùng câu liêm,
lưỡi quắm, giáo dài, ngạnh lớn, dùi bốn cạnh, gươm, kiếm đâm chém vô số quân
địch. Cùng lúc các bè thuyền nứa đang đốt cháy thả xuôi dòng nước lao về phía
giữa thuyền giặc, làm bốc cháy, thiêu sống nhiều quân giặc.
Bên phía Tràng Kềnh, quân ta tiêu diệt
toàn bộ đội quân của Phàn Tiếp. Phàn Tiếp bị trúng tên, nhảy xuống sông, bị
quân ta dùng câu liêm móc lên bắt sống.
Cùng lúc đó, theo kế hoạch đã định, đạo
quân ta do hai vua Trần chỉ huy tràn xuống đánh vào hậu quân Nguyên, khiến cho
chúng càng thêm bị động, hoảng sợ, thiệt hại nặng nề. Quân địch trước mặt, sau
lưng, hai bên đều bị quân ta bao vây chặn đánh. Trên cả khúc sông khí đó, máu
quân Nguyên chảy lênh láng, “nước sông đến nỗi đỏ ngầu”7.
Chủ tướng Ô Mã Nhi và tên quý tộc Mông Tích Lệ Cơ bị ta bắt sống. Toàn bộ binh
lính tìm cách thoát chạy bằng đường thuỷ và lên bờ đều bị tiêu diệt.
Sau khi tiêu diệt xong đạo quân thuỷ của
giặc, quân ta tập trung lực lượng chặn đánh, truy kích đạo quân bộ và kỵ binh
do Thoát Hoan chỉ huy theo đường Lạng Sơn rút chạy. Được tin đao quân thuỷ bị
tiêu diệt hoàn toàn, quân của Thoát Hoan càng hoảng sợ tháo chạy. Thừa thắng
quân dân ta vùng biên giới càng hăng hái truy kích tiêu diệt. Các trận ở cửa
quan Hãm Sa, các ải Nội Bàng, Nữ Nhi, Khẩu Cấp (đều thuộc Bắc Giang và Lạng
Sơn) đã liên tiếp giáng cho chúng những đòn thất bại nặng nề. Hàng chục vạn
quân địch bị phơi xác trên đường rút chạy. Ngày 19/4/1288, Thoát Hoan đành phải
giải tán nốt đám tàn quân bại trận của hắn ở Tư Minh (Quảng Tây – Trung Quốc).
Chiến thắng trên sông Bạch Đằng của quân
và dân nhà Trần là một trong những thành công rực rỡ của nghệ thuật quân sự dân
tộc Việt Nam trong điều kiện “dùng đoản binh thắng trường trận”,
phát huy sức mạnh tổng hợp của một đất nước nhỏ bé đánh thắng lực lượng quân
xâm lược của một đế quốc cường thịnh và tàn bạo bậc nhất trên thế giới lúc bấy
giờ.
Ba lần xâm lược, ba lần thảm bại nhục nhã.
Từ đây đế quốc Mông Nguyên vĩnh viễn không dám đem quân xâm lược nước ta lần
nữa. Chiến thắng sông Bạch Đằng nói riêng và ba lần chiến thắng quân Mông
Nguyên xâm lược nói chung đã phá tan âm mưu của đế quốc Mông Nguyên lấy nước ta
làm căn cứ chinh phạt các nước Đông Nam Á. Chiến thắng của quân Đại Việt còn là
hình ảnh tiêu biểu cho truyền thống yêu nước nồng nàn, khí phách anh hùng, ý
chí quật cường bất khuất và tinh thần đoàn kết của dân tộc ta từ ngàn đời nay…
-----------------------------------------------------------------
(1) Khi quân Nguyên đuổi đến Tam Trĩ thì
vua Trần và quân ta đa rút lui an toàn.
(3) Binh pháp Tôn Tử, Nhà xuất bản Quân
đội nhân dân, Hà Nội, năm 1964, tr.84.
(4) Nghĩa là nước rút xuống.
(5) Nghĩa là sông nhánh so với sông cái.
(6) Binh pháp Tôn Tử, sách đã dẫn, tr.92.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét