Chủ Nhật, 6 tháng 5, 2018

Ba lần đại phá quân Mông Nguyên – Sông Bạch Đằng nhuộm máu quân thù

Bước vào thế kỷ XIII, từ thảo nguyên mênh mông, lạnh giá vùng Đông Bắc Á, từng đoàn kỵ binh, bộ binh của đế quốc Mông Cổ (Tác  Ta) cuốn theo cát bui, binh đao, đi chinh phạt, xâm lược các nước, gieo rắc bao đau thương, chết chóc khắp châu Á, châu Âu. Hàng trăm kinh đô, thành thị, làng mạc bị thiêu đốt, hàng triệu dân thường bị giết hại... Cả thế giới khí đó quá khiếp sợ trước vó ngựa hung tàn của quân Tác Ta. Thế nhưng vó ngựa, binh đao, thuyền chiến… của quân Mông Nguyên tàn bạo đã bị quân dân Đại Việt thời nhà Trần 3 lần chặn đứng trên mảnh đất của kinh đô Thăng Long.
 Phác hoạ chân dung Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn

SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN ĐẾ CHẾ MÔNG CỔ
VÀ THÀNH LẬP NHÀ NGUYÊN
Năm 1206, đế quốc Mông Cổ thống nhất chính thức được thành lập, với vị vua đầu tiên Têmujin (mang hiệu Thành Cát Tư Hãn – nghĩa là vua vĩ đại). Sau khi lên ngôi, Thành Cát Tư Hãn bắt đầu tiến đánh các nước xung quanh, như Tây Hạ, Kim mở rộng lãnh thổ ra cả vùng Mãnh Châu, chiếm lấy Bắc Kinh – Trung Quốc. Sau đó, chúng tiếp tục chinh phạt vương quốc Khôretxmơ và Uốcghentrơ, sau đó tiếp tục tiêu diệt Tan gút. Năm 1227, sau khi Thành Cát Tư Hãn chết, Ôgôđây (con trai thứ ba của Thành Cát Tư Hãn) lên ngôi Đại Hãn đã khẩn trương chinh phạt và tiêu diệt được nước Kim. Năm 1236, quân Mông Cổ tấn công Nam Tống (mất 40 năm); đồng thời trong giai đoạn này, quân Mông Nguyên cho quân đi chinh phạt các nước châu Âu, như Vlađimia, Ucraina, Ba Lan, Tiêp, Hunggari… khiến cả châu lục này kinh hoàng, run sợ. Năm 1241, Ôgôđây chết, sau 5 năm, em trai là Guyúc lên thay. Năm 1248, Guyúc chết, Mông Ke lên ngôi Đại Hãn. Sau khi lên ngôi, Mông Ke tiếp tục cho quân đi chinh phạt các nước châu Âu, Trung Á, như Ba Tư, Lưỡng Hà… đồng thời cử em trai là Hốt Tất Liệt chinh phạt miền Nam Trung Quốc. Năm 1271, Hốt Tất Liệt diệt được Nam Tống và thành lập triều Nguyên. Đến năm 1279, nhà Nguyên thôn tính, kiểm soát được toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc.

ĐẠI PHÁ QUÂN MÔNG (NGUYÊN) LẦN THỨ NHẤT (1258)
Hoàn cảnh lịch sử:
Năm 1252, Đại Hãn Mông Ke cử em trai là Hốt Tất Liệt đảm đương cuộc chinh phạt Nam Tống theo 4 hướng tiến công. Hướng thứ 4 do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy, tiến đánh xâm lược Đại Việt, làm bàn đạp tấn công lên, rồi hợp quân với Hốt Tất Liệt bên Trung Quốc. Ngoài ra, xâm lược Đại Việt còn có ý nghĩa làm bàn đạp sau này cho quân Nguyên viễn chinh xuống Đông Nam Á.
Diễn biến quân dân nhà Trần đại phá quân Mông xâm lược lần thứ nhất (1258):
Thực hiện kế hoạch xâm lược Đại Việt, Ngột Lương Hợp Thai huy động lực lượng khoảng 4 vạn quân. Cuối năm 1257, toàn bộ quân giặc tiến đến và đóng quân sát biên giới đông bắc nước ta, sau đó cho sứ giả đưa thư đe dọa, dụ hàng vua Trần.


Sơ đồ chống quân Mông lần thứ nhất (1258)

Tháng 10/1257, nhận được tin quan chủ trại Quy Hóa cấp báo về việc sứ giả Mông Cổ đến và quân Mông Cổ đang chuẩn bị xâm lược, vua Trần Thái Tông xuống chiếu cho các tướng điều binh lên miền biên giới và ra lệnh cả nước khẩn trương chuẩn bị kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc.
Sau ba lần cử sứ giả đi và không thấy sứ giả trở về, Ngột Lương Hợp Thai quyết định tấn công vào nước ta. Lực lượng quân Mông được Ngột Lương Hợp Thai chia ra làm 4 đạo. Đạo quân thứ nhất do Triệt Triệt Đô chỉ huy và đạo thứ hai do một viên tướng khác chỉ huy tiên phong đi trước thăm dò, chỉ đường, tiến theo tả ngạn và hữu ngạn sông Thao xuống Bạch Hạc (Việt Trì – Phú Thọ). Theo sau là đạo quân thứ ba do A Thuật (Con của Ngột Lương Hợp Thai) chỉ huy. Còn đích thân Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy đạo quân thứ tư và cũng là lực lượng chủ lực, tiến theo sau.
Đoán trước đường đi tấn công của giặc, vua tôi nhà trần đã cho quân lập phòng tuyến chống giặc bên kia sông Cà Lồ - con sông chắn ngang ở Bình Lệ Nguyên (vùng Bình Xuyên – Vĩnh Phúc ngày nay).
Tháng 01/1258, các cánh quân của Mông Cổ đều hội quân ở Bạch Hạc. Tiếp tục, hai cánh quân thứ nhất và thứ hai tiên phong đi trước dò đường. Đến Bình Lệ Nguyên, thấy quân ta lập phòng tuyến chặn giặc bên kia sông, quân giặc cho người quay lại cấp báo với chủ tướng Ngột Lương Hợp Thai. Ngày 17/01/1258, toàn bộ quân giặc có mặt tại đây. Ngột Lương Hợp Thai chia quân làm ba đơt, tổ chức vượt sông. Trếch Trếch Đô dẫn đội tiên phong vượt sông trước, sau đó là đội trung quân do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy; cuối cùng là A Thuật dẫn đội hậu quân.
Sang sông, thấy vua Trần Thái Tông đích thân ra trận, Ngột Lương Hợp Thai muốn ăn tươi, nuốt sống quân ta và bắt sống nhà vua, kết thúc chiến tranh nhanh gọn. Tại đây đã diễn trận đánh quyết liệt giữa quân dân nhà Trần với quân Mông Cổ. Càng ngày quân giặc càng áp đảo, buộc quân ta phải rút lui, theo sông Cà Lồ về Phủ Lỗ (Đông Anh – Hà Nội). Để tuột mất vua Trần, Ngột Lương Hợp Thai nổi giận, đổ tội lỗi lên đầu tên tướng đi đầu. Quá hoảng sợ, Trếch Trếch Đô đã uống thuốc độc tự tử.
Sau khi, quân giặc đánh vào Phủ Lỗ, quân ta tiếp tục rút về kinh thành Thăng Long. Quân giặc ào ạt vượt qua các chiến tuyến, tiến quân và uy hiếp kinh thành. Triều đình và nhân dân tam thời rời khỏi kinh thành, rút về vùng Thiên Mạc (Duy Tiên – Hà Nam) để xây dựng, củng cố lực lượng.
Quân Mông Cổ tiến vào một kinh đô vắng lặng, không một bóng người và không lương thực. Chúng sục sạo khắp nơi, chỉ thấy trong ngục tối ba tên sứ giá (Một tên đã chết) chúng sai sang trước đó. Sau mấy ngày chiếm đóng, quân Mông Cổ dần dần lâm vào hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Chúng vừa bị dân binh các làng mạc xung quanh tấn công, đánh phá, quấy nhiễu, vừa mệt mỏi và ốm đau vì thiếu lương thực, nước uống. Tình cảnh đó đẩy toàn bộ tướng lĩnh cùng binh lính giặc vào trạng thái hoảng hốt, lo sợ cực đỉnh.
Nắm bắt được tình hình quân giặc, nhận thấy đây là thời cơ thuận lợi nhất, vua Trần đã quyết định phản công tiêu diệt quân giặc để giải phóng kinh đô. Từ sông Thiên Mạc, binh thuyền quân dân nhà Trần tiến ra sông Hồng về Thăng Long. Ngày 19/01/1258, quân ta mở trận phản công chiến lược đánh vào doanh trại địch ở Đông Bộ Đầu (là vị trí bến sông Hồng khoảng từ dốc Hàng Than đến dốc Hoè Nhai – quân Ba Đình – Hà Nội). Thua nặng và bị đánh bật khỏi kinh thành Thăng Long, quân giặc theo sông Hồng tháo chạy về nước. Dọc đường, chúng tiếp tục bị dân binh các địa phương miền núi chặn đánh, tiêu diệt gần hết. Số còn lại cùng chủ tướng Ngột Lương Hợp Thai cắm đầu chạy thoát thân một mạch về nước.

ĐẠI PHÁ QUÂN MÔNG - NGUYÊN LẦN THỨ HAI (1285)
Mục đích, chủ trương xâm lược của quân Mông – Nguyên:
Năm 1271, quân Mông Cổ thôn tính xong Nam Tống, lập ra triều Nguyên. Từ khi thành lập, triều Nguyên luôn nôn nóng thực hiện kế hoạch xâm lược nước ta một lần nữa, nhằm rửa nhục cho trận thua lần trước cách đấy hơn 10 năm. Nhất là từ khi vua Trần Nhân Tông khước từ trắng trợn việc vua Nguyên là Hốt Tất Liệt phong Đại Việt là An Nam tuyên uý ti (đầu năm 1282) dưới quyền cai trị của nhà Nguyên, thì dã tâm xâm lược của chúng càng tăng lên. Đặc biệt hơn nữa là xâm lược Đại Việt lần này, Hốt Tất Liệt muốn dùng nước ta làm bàn đạp để đánh chiếm Cham Pa, viễn chinh xâm chiếm các nước Đông Nam Á, thể hiện quyền bá chủ thế giới của đế quốc Tác Ta.
Rút kinh nghiệm từ thất bại lần xâm lược trước, Hốt Tất Liệt huy động lực lượng rất lớn, với tổng số khoảng 50 vạn quân (Theo Đại Việt sử ký toàn thư) và giao quyền chỉ huy tối cao cho con trai là Thoát Hoan. Phụ tống chỉ huy cùng Thoát Hoan còn có viên tướng lão luyện, nổi tiếng hung tàn, được xếp vào hàng công thần lập quốc của nhà Nguyên là A Lí Hải Nha. Nhằm tiêu diệt nhanh gọn quân dân Đại Việt, quân Nguyên chủ trương tấn công vào nước ta từ 3 hướng, tạo thành thế gọng kìm, bóp chặt từ biên giới phía bắc và phía nam. Phía bắc, quân giặc chia làm hai đạo: một đạo do Thoát Hoan và A Lí Hải Nha chỉ huy, một đạo do Nạp Tốc Lạt Dinh chỉ huỷ tiến quân vào; còn phía nam, đạo quân của Toa Đô đang chiếm đóng Cham Pa tấn công từ phía nam nước ta.
Chủ trương chống xâm lược của quân dân nhà Trần:
Cuối năm 1282, vua Trần triệu tập Hội nghị Bình Than (Bình Than là bến sông lớn ở cửa sông Đuống đổ vào sông Lục Đầu - nay thuộc xã Đại Than, Gia Lương, Bắc Ninh) với các vương hầu, quan lại, võ tướng trong triều bàn kế giữ nước. Hội nghị đã thống nhất đề cử Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn giữ chức Quốc công tiết chế thống lĩnh quân đội cả nước; Chiêu Minh vương Trần Quang Khải giữ chức Thượng tướng thái sư; đồng thời phân công các tướng lĩnh đem quân trấn giữ những nơi hiểm yếu.
Để hiệu triệu quân dân cả nước chung sức bảo vệ Tổ quốc, Trần Quốc Tuấn đã ra Hịch tướng sĩ. Toàn văn bài hịch là lời hiệu triệu, kêu gọi thiết tha, tràn đầy tinh thần yêu nước, ý chí căm thù giặc sâu sắc; là đại diện cho tinh thần dân tộc của quân dân cả nước vì nền độc lập, tự do của dân tộc.
Tiếp đó, Thượng hoàng Trần Thánh Tông mở Hội nghị Diên Hồng với các bậc phụ lão trong nước. Thể hiện quyết tâm đánh giặc Mông Nguyên, các vị phụ lão đã đồng thanh hô lớn “đánh”. Sách Đại việt sử ký toàn thư ghi rõ: “Muôn người cùng nói như một miệng sinh ra”. Hội nghị Diên Hồng là tiếng nói của bách tính, trăm họ, muôn dân về ý chí của dân tộc trước hoạ xâm lăng. Qua Hội nghị cho thấy cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Mông Nguyên không phải của riêng triều đình mà là do muôn dân, trăm họ, bách tính cùng gánh vác. Hội nghị cũng đã thể hiện rõ truyền thống yêu nước, đoàn kết ngàn đời của dân tộc ta.
Được toàn quyền chỉ huy quân đội cả nước, Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn đã ban lệnh cho các tướng lĩnh thống lĩnh từng đơn vị đi trấn giữ, bao vệ từng địa bàn xung yếu: tướng Phạm Ngũ Lão đóng giữ tại Lạng Sơn; tướng Trần Nhật Duật trấn giữ Tuyên Quang; tướng Trần Văn Lộng trấn giữ Tam Đái (Vĩnh Phúc). Đại bản doanh của Trần Quốc Tuấn trấn giữ tại Nội Bàng (Khoảng Chu – Bắc Giang).
Đại phá quân Mông - Nguyên lần thứ hai:
Quân Nguyên truy đuổi hòng bắt vua Trần, tiêu diệt quân chủ lực của ta:
Đầu năm 1285, các cánh quân địch đã tràn qua biên giới phía bắc nước ta. Ngày 02/02/1285, quân giặc chia làm 6 mũi tấn công vào Nội Bàng (Bắc Giang) – đại bản doanh của Trần Quốc Tuấn. Quân giặc quá đông và mạnh, Trần Quốc Tuấn đã cho quân lùi về Vạn Kiếp (Chí Linh – Hải Dương). Tại Vạn Kiếp, vua Trần Thánh Tông ra tìm gặp và vờ hỏi Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn: “thế giặc như thế, ta phải hàng thôi”. Trần Quốc Tuấn đáp lời vua Trần rằng: “Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng”.
Lui quân về Vạn Kiếp, Trần Quốc Tuấn huy động lực lượng khoảng 20 vạn quân. Ngày 11/02/1285, Thoát Hoan điều Ô Mã Nhi tấn công ở khúc sông Bình Than (Vạn Kiếp). Cuộc chiến đầu diễn ra quyết liệt, kéo dài bốn ngay. Sau đó, Vua Trần và Trần Quốc Tuấn chỉ huy quân rút khỏi Vạn Kiếp, theo sông xuôi về Thăng Long. Ngày 17/02, quân Ô Ma Nhi tấn công vào bờ bắc sông Hồng. Ngày 18/02, quân ta chặn đánh địch tại đây, sau đó tạm thời rút khỏi kinh thành Thăng Long (Cũng thời điểm này, cánh quân thứ 3 của địch do Nạp Tốc Lạt Dinh chỉ huy từ Vân Nam đã tràn vào nước ta. Tướng Trần Nhật Duật cho quân ra chặn đánh quyết liệt. Sau vài trận, Trần Nhật Duật cho quân rút lui an toàn về hội quân với vua Trần và Trần Quốc Tuấn).
Thấy vua Trần bỏ thành, Thoát Hoan cho quân truy đuổi. Đến vùng Thiên Mạc (Duy Tiên – Ha Nam), tướng Trần Bình Trong thúc toàn quân của mình ra chặn giặc, bảo vệ nhà vua rút lui an toàn về Thiên Trường (Nam Định). Vì quân giặc quá đông, ông đã bị giặc bắt. Địch dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ và cực hình nhằm mua chuộc Trần Bình Trọng, nhưng ông thẳng thắn nói rằng: “Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” (Ngày 26/02/1285, quân giặc giết chết ông).
Không bắt được vua Trần và tiêu diệt quân chủ lực của ta, Thoát Hoán ban lệnh cho các tướng dựng hệ thống đồn trại từ biên giới Lang Sơn về xuôi, cứ 30 dặm đóng một trạm, 60 dặm đóng một trạm ngựa; mỗi trạm có khoảng 300 quân canh phòng, tuần tra nghiêm ngặt… Việc phân tán đóng quân thành các đồn trại như vậy đã tạo điều kiện thuân lợi và là mục tiêu cho lực lượng dân binh các địa phương của ta tấn công bao vậy, tiêu diệt hao sinh lực địch…
Năm bắt được tình hình như vậy, Trần Quốn Tuấn và Phạm Ngũ Lão cho quân lên chiếm lại Vạn Kiếp; đồng thời để củng cố phía Nam, vua Trần và Trần Quốc Tuấn cử tướng Trần Nhật Duật vào trấn giữ Nghệ An, tướng Trần Kiện trấn giữ Thanh Hoá (Trần Kiện sau đó đầu hàng địch). Thấy quân ta chiếm Vạn Kiếp, Thoát Hoan bắt đầu hoảng sợ, liền gửi thư về nước cầu thêm viện binh.
Ở phía Nam, tháng 02/1285, quân của Toa Đô tấn công Nghệ An. Vừa mới vào, quân ta do Trần Nhật Duật chống cự không nổi, tướng Trần Quang Khai vào tiếp ứng nhưng không kịp. Sau khi chiếm được Nghệ An, Toa Đô tấn công ra Thanh Hoá. Bọn Trần Kiện và Lê Trắc đầu hàng và chỉ đường cho giặc. Tướng Trần Quan Khai cùng nhiều tướng lĩnh khác và nhân dân Thanh Hoá tổ chức đánh địch kiên cường để bảo vệ làng mạc và chặn đường tiến quân của chúng. Vì quân địch quá mạnh, tướng Trần Quang Khải tạm thời cho quân rút lui.
Tháng 3/1285, quân ta tiến về để chiếm lại thành Thăng Long, nhưng liệu thế không được lại rút về Thiên Trường. Thấy vậy, Trần Quốc Tuấn rút từ Vạn Kiếp về Thiên Trường; vua Trần và quân ta theo sông Hồng ra cửa Giao Thuỷ (ở Nam Định) ngược lên về Tam Trĩ1, về Thuỷ Chú (đều thuộc Quảng Ninh) để đánh lừa quân giặc, sau đó ra cửa Nam Triệu về Thanh Hoá.
Cùng lúc đó, quân của Toa Đô tiến ra Trường Yên (Ninh Bình) với tình trạng mệt mỏi, khốn quẫn vì bệnh tật, thiếu lương thực… Thoát Hoan vội ra lệnh cho Toa Đô cùng Ô Mã Nhi hộ tống tiến vào Thanh Hoá đuổi bắt vua Trần. Toa Đô gượng gạo nhận mệnh lệnh lên đường.
Quân dân ta phản công tiêu diệt quân giặc:
Sau nhiều ngày vào nước ta, không thể thực hiện được mục tiêu bắt vua Trần, diệt quân chủ lực của ta, toàn bộ quân Nguyên đến thời điểm này đều rơi vào trạng thái vô cùng khó khăn và hoảng loạn, vì mệt mỏi, ốm yếu bệnh tật, thiếu ăn, thời tiết khắc nghiệt. Nắm bắt được tình hình như vậy, tháng 5/1285, Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn cùng Chiêu minh vương Trần Quang Khai, Chiêu văn vương Trần Nhật Duật và các tướng lính điều binh thuyên tiến quân ra bắc, chuẩn bị phản công tiêu diệt quân giặc.
   

Sơ đồ chống quân Mông Nguyên lần thứ hai (1285)

Ở Thăng Long, quân địch đóng ở 2 vị trí chủ chốt. Vị trí chủ đạo là đạo quân do Thoát Hoan chỉ huy đóng ở kinh thành Thăng Long; vị trí dọc sông Hồng (Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương…) là toán quân của Toa Đô nhưng do Giảo Kỳ chỉ huy.
Phân tích tình hinh và lực lượng quân giặc, Trần Quốc Tuấn nhận định rằng muốn tiêu diệt triệt để quân địch, trước tiên phải diệt được các đồn trại địch ở dọc sông Hồng, nhằm chia cắt, cô lập cánh quân của Thoát Hoan với cánh quân của Toa Đô, đẩy chúng vào thế hoàn toàn bị động. Trên cơ sở đó, Trần Quốc Tuân tự đảm nhận nhiệm vụ dẫn quân lên Vạn Kiếp diệt giặc trên đường rút chạy và cầm đại quân diệt địch; đồng thời phân công các tướng Trần Quang Khải và Trần Nhật Duật chỉ huy đánh vào đồn giặc tả, hữu ngạn sông Hồng.
Mở đầu trận phản công, trên đường lên Vạn Kiếp, quân Trần Quốc Tuấn tấn công vào đồn A Lỗ (mạn sông Luộc giao với sông Hồng). Tướng giặc Lưu Thế Anh bỏ chạy về Thăng Long hội quân với Thoát Hoan.
Cuối tháng 5/1285, các tướng Trần Quang Khai và Trần Nhật Duật chỉ huy quân đánh vào các đồn địch ở dọc sông Hồng. Trong đó, Chiêu Thành vương (không rõ tên tuổi) và tướng Nguyễn Khoái và Trần Quốc Toản chỉ huy quân tiêu diệt địch ở Tây Kết (Khoái Châu – Hưng Yên); Trần Nhật Duật dẫn quân đánh vào Hàm Tử (Hưng Yên); đích thân Trần Quang Khai dẫn đại quân tấn công vào Chương Dương (thuộc Thường Tín – Hà Nội; bên hữu ngạn sông Hồng, đối diện với Hàm Tử).
Bị thua nặng ở Tây Kết, Hàm Tử và Chương Dương, quân giặc rút chạy về Thăng Long. Thừa thắng, các binh đoàn quân thuỷ bộ của ta tiến về vây, áp sát kinh thành. Trước tình cảnh nguy khốn, các cánh quân địch liều chết phá vòng vây chạy sang Gia Lâm, sau đó rút chạy. Kinh thành Thăng Long được giải phóng.
Cánh quân của Thoát Hoan rút chạy về Vạn Kiếp. Trên đương rút chạy, chúng bị quân của Trần Quốc Tuấn chặn, đánh cho tơi tả ở vùng Quế Võ (Bắc Ninh), buộc chúng phải rút sang phía sông Như Nguyệt (Bắc Ninh). Khi đang vượt sông, quân giặc bị quân của Trần Quốc Toản đổ ra tấn công bất ngờ, nên gặp tổn thất nặng nề. Bị thua nặng, Thoát Hoãn dẫn quân chạy đến Vạn Kiếp thì sa vào cạm bẫy phục kích của Trần Quốc Tuấn. Đợi khi quân giặc đang sang sông, toàn bộ quân ta xông lên tiêu diệt. Quân giặc hoảng loạn, xô đẩy nhau làm cầu phao bị đứt, rơi xuống sông chết gần hết. Số tàn quân còn lại vô cùng hoảng loạn, buộc Thoát Hoan phải sai Lý Hằng liều chết mở đường máu chạy thục mạng về phía Lạng Sơn. Trên đường rút chạy, chúng bị quân ta phục kích sẵn, bắn tên tẩm thuốc độc xối xả. Hoảng sợ, túng thế, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để quân khiêng chạy thoát thân; Lý Bằng trúng tên độc và chết sau đó. Một cánh quân Nguyên khác rút chạy về Vân Nam, đến Phù Ninh (Bắc Ninh) bị dân binh chặn đánh, phai bỏ chạy tan tác.
Ở mặt trận phía Nam, thấy Thoát Hoan thưa trận, Toa Đô và Ô Mã Nhi theo đường biển ngược ra sông Hồng. Đến Tây Kết, bị quân ta chặn, đánh cho tơi tả. Cùng thời gian nay, quân ta do vua Trần chỉ huy tấn công vào binh thuyền của Toa Đô, tướng giặc Trương Hiền đầu hàng. Toa Đô bị bắt và chém đầu. Ô Mã Nhi và Lưu Khuê chạy ra biển thoát thân.
Với những trân đánh chiến lược ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long, Vạn Kiếp, quân và dân ta đã quét sạch 50 vạn quân Nguyên xâm lược ra khỏi bõ cõi, bảo vệ vững chắc, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ hai.

ĐẠI PHÁ QUÂN MÔNG - NGUYÊN LẦN THỨ BA (1288)
SÔNG BẠCH ĐẰNG NHUỘM MÁU QUÂN NGUYÊN
Về lực lượng quân Mông Nguyên:
Hai lần xâm lược là hai lần thất bại nhục nhã, Hốt Tất Liệt tức tối huỷ bỏ kế hoạch xâm lược Nhật Bản, dồn sức để thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ ba, nhằm phục hận cho những lần trước. Khác với hai lần trước, thực hiện cuộc viễn chinh lần này, Hốt Tất Liệt huy động cả thuỷ binh cùng với bộ binh và kỵ binh khá mạnh, với tổng số 30 vạn quân, tiếp tục do Thoát Hoãn thống lĩnh chỉ huy, chia làm ba đạo: Đạo thứ nhất (chiếm số đông) do Thoát Hoan chỉ huỷ tiến vào nước ta qua Lạng Sơn; Đạo thứ hai do Ái Lỗ chỉ huy từ Vân Nam theo sông Hồng tiến vào; Đạo quân thứ 3 là thuỷ binh do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy với hơn 600 chiến thuyền, từ Quảng Đông tiến vào sông Bạch Đằng, rồi hội quân ở Vạn Kiếp. Ngoài ra còn có đội thuyền vận tải do Trương Văn Hồ cầm đầu, chở 70 vạn hộc (Hộc là dụng cụ đong lường dùng để đong chất hạt rời thời xưa, thường làm bằng gỗ, có dung tích khoảng 10 lít) lương theo sau.
Chủ trương chống xâm lược của vua tôi nhà Trần:
Trong cuộc chiến lần này, Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn tiếp tục được vua Trần và các tướng lĩnh cử làm Quốc công tiết chế thống lĩnh chỉ huy quân đội cả nước. Qua kinh nghiệm thực tiễn trong hai cuộc kháng chiến lần trước, ông đề ra kế hoạch đánh giặc rất chủ động và tài giỏi. Trên cơ sở xem xét tính chất lực lượng quân giặc lần này, ông chủ trương đề xuất với triều đình cần chú trọng đến mặt trận ven biển đông bắc. Vì đây là đường hành quân của thuỷ quân giặc và đoàn thuyền vận tải trở lương của chúng. Trần Quốc Tuấn đã giao cho phó tướng Trần Khánh Dư phụ trách mọi công việc về biên thuỳ ven biển, tướng Trần Toàn phụ trách nhiệm vụ chặn thuỷ quân giặc.
Ngoài ra, vua tôi nhà Trần tiếp tục thực hiện chính sách “vườn không nhà trống”, kêu gọi toàn dân cùng tham gia chống giặc, cất giấu lương thực cắt đứt nguồn tiếp lương cho chúng, tiến hành tấn công tiêu hao sinh lực địch, đẩy chúng vào thế co cụm, bị động. Tinh thần của quân dân cả nước khi bước vào kháng chiến lần này với khí thế đầy quyết tâm và tin tưởng thắng lợi. Tinh thần đó được thể hiện rõ nét qua hội thoại sau đây giữa Trần Quốc Tuấn với vua Trần: Trần Nhân Tông hỏi “Giặc đến làm thế nào”, Trần Quốc Tuấn trả lời “Năm nay giặc đến dễ đánh”.
Diễn biến quân dân nhà Trần đập tan quân Mông Nguyên xâm lược lần thứ ba:
Quân và dân nhà Trần cắt đứt đường hậu cần của quân Nguyên, đẩy quân giặc vào thế bị động:
Cuối năm 1287, quân Nguyên từ các hướng theo kế hoạch đã tiến vào nước ta. Cánh quân của Thoát Hoan nhanh chóng vượt qua Lạng Sơn, tiến xuống đóng quân ở Vạn Kiếp. Cánh quân địch ở Vân Nam cũng theo sông Hồng xuôi xuống, bị quân của Trần Nhật Duật chặn đánh ở Bạch Hạc, xong chúng vẫn phá vỡ được vòng vây, tiến xuống Phú Lương (Thái Nguyên). Ở vùng biển đông bắc, cánh quân thuỷ do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy vừa vào đến lãnh thổ nước ta thì bị quân ta do Trần Toàn chặn đánh ở Ngọc Sơn (Mũi Ngọc – Quảng Ninh). Tuy có nhiều thiệt hại nhưng thuỷ quân giặc đã tiến được vào vùng biển Hạ Long và An Bang (Quảng Ninh). Tại đây diễn ra trận đánh quyết liệt giữa thuỷ quân giặc với quân ta do Trần Khánh Dư chỉ huy. Nhưng quân giặc quá mạnh, quân của Trần Khánh Dư không cản được đạo quân của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp. Sau đó, thuỷ quân giặc tiến vào sông Bạch Đằng ngược lên hội quân với Thoát Hoan, bỏ lại đoàn thuyền vận tải trở lương của Trương Văn Hổ còn đang đi phía sau. Chớp thời cơ này, để chuộc tội với vua Trần, Trần Khánh Dư phục kích đón đánh 70 chiếc thuyền lương giặc ở Vân Đồn – Cửa Lục. Bị tấn công, thuyền địch hoảng hốt tháo chạy. Quân ta tịch thu được nhiều quân lương, khí giới và bắt nhiều tù binh.
Chiến thăng Vân Đồn có ảnh hưởng rất lớn đến chiều hướng phát triển của cuộc chiến tranh sau này. Chiến thắng đó đã đánh đúng điểm yếu có tính quyết định trong kế hoạch chiến tranh của quân Nguyên. Khi quân ta đã cắt đứt đường tiếp tế lượng thực của quân giặc sẽ đẩy chúng vào thế vô cùng khó khăn khi phải kéo dài chiến tranh trên lãnh thổ nước ta đồng nghĩa đẩy chúng vào thế bị động chiến lược, sẽ tạo điều kiện cho quân ta tổng phản công tiêu diệt.
Sơ đồ chống quân Mông Nguyên lần thứ ba (1288)

Quân Nguyên lâm vào thế bị động, buộc phải bàn kế rút quân về nước
Sau khi hội quân ở Vạn Kiếp, Thoát Hoan cho xây dựng nơi đây thành căn cứ quân sự vững chắc, đồng thời đưa quân tiến về Thăng Long nhằm bắt vua Trần và tiêu diệt quân chủ lực của ta, buộc quân và dân ta phải rút khỏi thành, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ phản công. Quân ta bỏ thành, chúng tiếp tục cho quân đuổi theo nhưng cũng không sao bắt được.
Sau hai tháng chiếm thành, mấy chục vạn quân Nguyên dần dần lâm vào tình trạng hoang mang lo lắng vì thiếu lương thực. Chúng mặc sức tàn sát nhân dân và cướp phá, nhưng đi đến đâu cũng gặp vườn không nhà trống. Âm mưu tiêu diệt nhà vua và quân chủ lực của ta không thực hiện được, âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh chúng cũng càng không thể. Quân địch dự đoán không sớm thì muộn quân chủ lực của ta sẽ phản công mạnh mẽ tiêu diệt chúng. Nhận thấy đóng quân ở Thăng Long rất nguy hiểm, đầu tháng 3/1288, Thoát Hoan và các tướng đã bỏ thành Thăng Long rút quân về Vạn Kiếp – căn cứ quân sự mà chúng dày công xây dựng. Nhưng căn cứ Vạn Kiếp bây giờ cũng không còn là nơi an toàn cho chúng nữa. Quân địch bàn với nhau rằng: “Ở Giao Chỉ không có thành trì để giữ, không có lương thực để ăn, mà thuyền lương của Trương Văn Hổ không đến. Vả lại khí trời nóng lực, lương hết, quân mệt, không lấy gì chống giữ được lâu, lấy làm hổ thẹn cho triều đình, chi bằng nên toàn quân mà về thì hơn”2.
Cuối cùng Thoát Hoan và các tướng lĩnh đã chọn cách rút quân về nước. Rút kinh nghiệm của hai lần thất bại trước, lần này quân Nguyên chia làm hai đạo quân theo hai hướng thuỷ, bộ rút quân: Đạo quân thứ nhất do Thoát Hoan chỉ huy rút theo đường Lạng Sơn có kỵ binh đi trước mở đường; Đạo quân thứ hai do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy rút theo đường thuỷ qua sông Bạch Đằng.
Chủ trương của quân dân nhà Trần về tiêu diệt quân Nguyên trên đương rút quân về nước:
Khi quân giặc tập trung về Vạn Kiếp chuẩn bị rút về nước, Trần Quốc Tuân nhận định không mở trận tấn công vào Vạn Kiếp để tiêu diệt mà mở những trận quyết chiến tiêu diệt địch vào lúc chúng đang rút lui. Chủ trương của Trần Quốc Tuấn khác với nguyên tắc dùng binh trong Binh Pháp Tôn Tử: “địch rút lui về nước thì đừng bao giờ vây ngăn chặn, bao vây địch thì cần để trống một mặt, không nên vây kín, địch đến lúc cùng khốn thì không nên bức bách quá”3. Việc Trần Quốc Tuấn chọn cách lúc địch rút lui để tiêu diệt gọn là một chủ trương chiến lược đúng đắn, sáng suốt, phù hợp với tình hình thực tế của cuộc chiến tranh, đánh giá đúng bản chất, âm mưu quỷ quyệt và ngoan cố của quân thù, chứ không vận dụng cứng nhắc một nguyên tắc nào của binh pháp. Chủ trương này cũng thể hiện rõ quyết tâm, ý chí của quân và dân ta phải đánh bại ý xâm lược quân địch, buộc chúng từ bỏ dã tâm muốn trở lại xâm lược nước ta lần nữa.
Tuy nhiên, yêu cầu đặt ra lúc này của quân và dân ta là tiêu diệt địch trên cả hai hướng chúng rút chạy hay một hướng và hướng nào là chủ yếu. Theo các sử liệu ghi chép, lúc rút binh về nước, lực lượng quân nguyên vẫn xấp xỉ tổng số quân khi chúng tiến vào nước ta là 30 vạn (tuy có hao tổn nhưng vẫn rất đông). Trong đó bộ binh và kỵ binh là mạnh nhất, chiếm số đông. Đại bộ phận bộ và kỵ binh quân địch theo Thoát Hoan rút lui theo đường bộ; còn khoảng 6 vạn quân giặc rút theo đường thuỷ. Và Thoát Hoan cho đạo quân thuỷ rút lui trước và có đội kỵ binh trên bờ hộ tống đến cửa biển. Quyết tâm của quân ta là tiêu diệt tối đa cả hai đạo quân địch, không cho chúng thoát khỏi những đòn phản công chiến lược. Nhưng lực lượng quân ta không cho phép một lúc đồng thời bố trí hai lực lượng tổ chức hai trận đánh lớn trên hai đường rút quân tiêu diệt gọn hai đạo quân thuỷ bộ của địch. Trên cơ sở nắm rõ tình hình lực lượng, hướng rút quân của địch và xuất phát từ tư tưởng “giặc cậy trường trận ta cậy đoản binh, lấy đoản chế trường”, Trần Quốc Tuấn đề ra chủ trương trước hết tập trung lực lượng tiêu diệt thật gọn, thật nhanh đạo quân thuỷ của giặc. Khi đạo quân thuỷ bị tiêu diệt sẽ tác động mạnh mẽ đến tinh thần chiến đấu của đạo quân bộ địch rút lui sau. Tinh thần chiến đấu của chúng vốn đã suy yếu sẽ càng bị sụp đổ nhanh. Chúng lâm vào hoảng loạn tháo chạy hỗn loạn tạo điều kiện cho các cánh quân của ta phục kích tiêu diệt tối đa quân địch. Như vậy, quân ta có thể tiêu diệt được cả hai đạo quân thuỷ - bộ của quân Nguyên, trong đó đạo quân thuỷ bị tiêu diệt gọn, toàn bộ; đạo quân bộ thì bị tiêu diệt từng bộ phận và cuối cùng bị tiêu diệt nặng nề.
Tiếp theo về bố trí lực lượng: đại quân của vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông chỉ huy kéo về vùng Hiệp Môn (Kinh Môn – Hải Dương); còn lực lượng chủ lực của Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư đóng ở Vân Đồn và Yên Hưng (cả hai thuộc Quảng Ninh).
Chọn sông Bạch Đằng là nơi diễn ra trận quyết chiến chiến lược:
Trên đường rút quân từ Vạn Kiếp ra biển, nhất định quân giặc phải qua sông Bạch Đằng. Trần Quốc Tuấn quyết định chọn sông Bạch Đằng là nơi diễn ra trận quyết chiến chiến lược tiêu diệt đạo quân thuỷ của địch.
Sông Bạch Đằng là con sông chảy giữa thị xã Quảng Yên (Quảng Ninh) và huyện Thuỷ Nguyên (Hải Phòng), cách vịnh Hạ Long, Cửa Lục khoảng 40 km, cách Vạn Kiếp – nơi đóng quân của quân Nguyên khoảng hơn 30 km. Sông Bạch Đằng là cửa ngõ giao thông quan trọng từ biển Đông vào nước ta. Hạ lưu sông thấp, chịu ảnh hưởng của nước triều khá mạnh. Khi nước triều lên cao mặt sông ở vùng Tràng Kềnh trải rộng hơn 1.200m, khi nước triều xuống, nước rặc4, nơi sâu nhất 16m, trung bình lòng sông sâu 8 đến 11m. Triều lên từ nửa đêm đến sáng, gần trưa thì triều rút mạnh, chảy rất nhanh. Con sông này chảy qua một vùng núi non hiểm trở, có nhiều nhánh sông phụ đổ vào. Theo sông Đá Bạc chảy xuống đến đầu dãy núi Tràng Kềnh, sông Bạch Đằng phình to ra – đó là nơi tập trung dòng nước của các con sông: Khoai, Xinh bên tả ngạn, sông: Gia Đước, Thải, Giá bên hữu ngạn đổ về. Đồng thời có sông Chanh, sông Kênh và sông Rút là chi lưu5 bên tả ngạn đổ nước ra vịnh Hạ Long. Bên tả phía giữa sông Chanh và sông Rút có bãi đá ngầm – nhân dân gọi là ghềnh Cốc, với năm cồn đá chắn ngang ¾ sông Bạch Đằng. Ngoài ra địa hình nổi bật của sông Bạch Đằng là những dãy núi hiểm trở nối tiếp nhau sát hai bên bờ sông, như núi Tràng Kềnh, núi Áng Hồ, Áng Ngọc, Áng Châu, Áng Táu… Đây thực sự là một địa hình hiểm yếu giúp quân và dân ta chọn làm nơi trận địa mai phục lý tưởng để tiêu diệt quân địch. Binh pháp Tôn Tử ghi rõ: “Địa hình là nơi hỗ trợ cho việc dùng binh. Đoán rõ ý định của địch, nghiên cứu địa hình khó khăn, hiểm trở, tính toán đường sá xa gần, đặt kế hoạch thắng lợi, đó là chức trách của người làm tướng”6.
Ngoài việc lợi dụng yếu tố địa hình làm chướng ngại tự nhiên, để góp phần tiêu diệt quân thù, Trần Quốc Tuấn còn cho xây dựng các trận địa cọc lợi hại, trong đó tập trung chủ yếu ở cửa ba nhánh sông đổ ra biển là sông Chanh, sông Kênh, sông Rút (bãi chính là cửa sông Chanh). Việc xây dựng trận địa cọc này được quân và dân nhà Trần thực hiện khẩn trương. Trong những tháng ngày gấp gáp, lạnh giá của tháng 3 năm 1288, quân và dân Đại Việt đã đem hết sức mình, bí mật và nhanh chóng chặt hạ hàng ngàn cây gỗ lim to lớn, sau đó đục đẽo, chỉnh sửa theo yêu cầu, vận chuyển, cắm xuống ba cửa sông theo kế hoạch đã định. Cả ba bãi cọc phối hợp với nhau như một tuyến mai phục ngầm, chặn ba cửa sông – ba lối thoát của thuyền địch từ sông Bạch Đằng ra biển. Ba bãi cọc với hàng ngàn chiếc cọc được tạo nên bằng trí tuệ và sức lực, tinh yêu nước và quyết tâm chiến thắng của quân và dân Đại Việt.
Quân dân nhà Trần phản công tiêu diệt quân địch - sông Bạch Đằng nhuộm máu quân Nguyên:
Cuối tháng 3/1288, từ căn cứ Vạn Kiếp, đạo quân thuỷ của quân Nguyên do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy bắt đầu rút lui trước, trên bờ có kỵ binh do Trình Bằng Phi và Đạt Truật hộ tống.
Để góp phần đảm bảo yếu tố bí mật của trận địa mai phục, quân dân nhà Trần buộc phải tách rời đội kỵ binh địch ra khỏi đạo quân thuỷ. Để thực hiện điều trên, quân dân nhà Trần đã phá huỷ cầu đường, bố trí quân chặn đánh, gây khó khăn cho chúng. Đến ngày 4/4/1288, vì quá sợ quân ta tiêu diệt, đoàn kỵ binh của quân Nguyên đã tự động tìm đường quay trở lại Vạn Kiếp để kịp theo Thoát Hoan tháo chạy.


Sơ đồ trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng (1288)

Như vậy, quân ta đã tách được đoàn kỵ địch ra khỏi đạo thuỷ binh của Ô Mã Nhi. Qua nhiều tháng tham chiến ở Đại Việt, đạo quân thuỷ của Ô Mã Nhi ngày càng mệt mỏi và giờ thì thêm hoang mang, lo sợ. Chúng hành quân chật vật và khó khăn, liên tiếp bị các cánh quân của ta bố trí mai phục nhằm kìm hãm bước hành binh của chúng.
Ngày 8/4/1288, địch cho đội tiền vệ do Lưu Khuê chỉ huỷ đến sông Giá thăm do lực lượng của ta và tìm đường tắt ra biển. Đến vùng Trúc Động (thuộc Thuỷ Nguyên – Hải Phòng), địch bị quân ta chặn đánh, tiêu diệt phần lớn; số còn lại buộc phải quay lại hội quân với Ô Mã Nhi.
Mờ sáng ngày 9/4/1288, đạo quân thuỷ của Ô Mã Nhi đã tiến xuống gần sông Bạch Đằng, đi đầu là đội tiền quân do Phàn Tiếp chỉ huy. Lúc này là độ nước triều đang chuẩn bị xuống và xuống mạnh vào lúc giữa trưa. Trên các mỏm núi, trong các nhánh sông, quân và dân ta gươm giáo, cung, kiếm, gậy gộc đang mai phục, chờ khi nước triều xuống mạnh và binh thuyền của quân Nguyên lọt vào giữa sông Bạch Đằng là đổ ra quyết chiến.
Để mở đầu trận đánh, Trần Quốc Tuấn cho một đội thuyền ra khiêu chiến, sau đó giả vờ thua bỏ chạy. Quân địch do Phàn Tiếp chỉ huy đuổi theo. Đúng lúc này, nước triều bắt đầu xuống mạnh, từ các nhánh sông, quân ta lao ra, áp sát, đánh vào sườn đội thuyền địch. Bị phục kích bất ngờ, binh thuyền địch hoảng loạn, Phàn Tiếp cho quân chạy về phía Tràng Kênh, leo lên chiếm lấy núi cao. Nhưng không ngờ, chúng đã rơi vào trận địa mai phục của quân dân nhà Trần. Từ trên núi Tràng Kềnh, quân ta lao xuống, hất quân địch rơi xuống hết đợt này đến đợt khác.
Cùng lúc đó, đạo quân thuỷ chủ lực do Ô Mã Nhi chỉ huy bắt đầu đổ vào sông Bạch Đằng. Hướng đến bãi ghềnh Cốc, quân địch cố né bãi ghềnh cạn, dồn đội hình để qua bãi ghềnh sâu. Chớp cơ hội đó, quân ta với hàng trăm chiến thuyền cùng quân các lộ từ các lạch sông do tướng Nguyễn Khoái chỉ huy, lao ra tấn công vào giữa đội hình địch. Bị tấn công dữ dội, nhiều thuyền giặc luống cuống va vào bãi ghềnh cạn, chiếc bị đắm, chiếc bị lật… những chiếc khác thì dạt sang một bên để thoát chạy. Khi đó các binh thuyền của ta tả xung hữu đột các phía hướng về phía binh thuyền địch. Thuyền địch dần dần dạt về bên tả ngạn. Ô Mã Nhi đốc binh thuyền chạy về phía cửa sông Chanh, sông Kênh và sông Rút nhằm tháo chạy ra biển.
Lúc đó vào gần trưa, nước triều càng xuống mạnh làm cho các trận địa cọc nằm im lìm dưới lòng sông mênh mông, bỗng dưng nhô lên như vùng lên cùng quân và dân ta đánh giặc. Bị tả xung hữu đột, nước triều rút mạnh, binh thuyền giặc lao vào cửa sông càng ngày càng nhanh. Từng lớp thuyền địch cứ vùn vụt đâm vào các trận địa cọc. Nhiều chiếc bị cọc đâm thủng, bị đắm hoặc mắc cạn, làm cho toàn bộ thuyền đich dồn tắc lại không thể đi được. Khi đó từ trên cạn, quân ta lần lượt xả hàng loạt trận mưa tên tẩm thuốc độc vào quân giặc. Thuyền chiến của ta áp sát, lao vào dùng câu liêm, lưỡi quắm, giáo dài, ngạnh lớn, dùi bốn cạnh, gươm, kiếm đâm chém vô số quân địch. Cùng lúc các bè thuyền nứa đang đốt cháy thả xuôi dòng nước lao về phía giữa thuyền giặc, làm bốc cháy, thiêu sống nhiều quân giặc.
Bên phía Tràng Kềnh, quân ta tiêu diệt toàn bộ đội quân của Phàn Tiếp. Phàn Tiếp bị trúng tên, nhảy xuống sông, bị quân ta dùng câu liêm móc lên bắt sống.
Cùng lúc đó, theo kế hoạch đã định, đạo quân ta do hai vua Trần chỉ huy tràn xuống đánh vào hậu quân Nguyên, khiến cho chúng càng thêm bị động, hoảng sợ, thiệt hại nặng nề. Quân địch trước mặt, sau lưng, hai bên đều bị quân ta bao vây chặn đánh. Trên cả khúc sông khí đó, máu quân Nguyên chảy lênh láng, “nước sông đến nỗi đỏ ngầu”7. Chủ tướng Ô Mã Nhi và tên quý tộc Mông Tích Lệ Cơ bị ta bắt sống. Toàn bộ binh lính tìm cách thoát chạy bằng đường thuỷ và lên bờ đều bị tiêu diệt.
Sau khi tiêu diệt xong đạo quân thuỷ của giặc, quân ta tập trung lực lượng chặn đánh, truy kích đạo quân bộ và kỵ binh do Thoát Hoan chỉ huy theo đường Lạng Sơn rút chạy. Được tin đao quân thuỷ bị tiêu diệt hoàn toàn, quân của Thoát Hoan càng hoảng sợ tháo chạy. Thừa thắng quân dân ta vùng biên giới càng hăng hái truy kích tiêu diệt. Các trận ở cửa quan Hãm Sa, các ải Nội Bàng, Nữ Nhi, Khẩu Cấp (đều thuộc Bắc Giang và Lạng Sơn) đã liên tiếp giáng cho chúng những đòn thất bại nặng nề. Hàng chục vạn quân địch bị phơi xác trên đường rút chạy. Ngày 19/4/1288, Thoát Hoan đành phải giải tán nốt đám tàn quân bại trận của hắn ở Tư Minh (Quảng Tây – Trung Quốc).
Chiến thắng trên sông Bạch Đằng của quân và dân nhà Trần là một trong những thành công rực rỡ của nghệ thuật quân sự dân tộc Việt Nam trong điều kiện “dùng đoản binh thắng trường trận”, phát huy sức mạnh tổng hợp của một đất nước nhỏ bé đánh thắng lực lượng quân xâm lược của một đế quốc cường thịnh và tàn bạo bậc nhất trên thế giới lúc bấy giờ.
Ba lần xâm lược, ba lần thảm bại nhục nhã. Từ đây đế quốc Mông Nguyên vĩnh viễn không dám đem quân xâm lược nước ta lần nữa. Chiến thắng sông Bạch Đằng nói riêng và ba lần chiến thắng quân Mông Nguyên xâm lược nói chung đã phá tan âm mưu của đế quốc Mông Nguyên lấy nước ta làm căn cứ chinh phạt các nước Đông Nam Á. Chiến thắng của quân Đại Việt còn là hình ảnh tiêu biểu cho truyền thống yêu nước nồng nàn, khí phách anh hùng, ý chí quật cường bất khuất và tinh thần đoàn kết của dân tộc ta từ ngàn đời nay…

 -----------------------------------------------------------------
(1) Khi quân Nguyên đuổi đến Tam Trĩ thì vua Trần và quân ta đa rút lui an toàn.
 (2) Nguyên sử, quyển 209, An Nam truyện.
(3) Binh pháp Tôn Tử, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, năm 1964, tr.84.
(4) Nghĩa là nước rút xuống.
(5) Nghĩa là sông nhánh so với sông cái.
(6) Binh pháp Tôn Tử, sách đã dẫn, tr.92.
(7) Đại Việt sử ký toàn thư, sách đã dẫn, tập II, tr.61.
Chia sẻ:

0 nhận xét:

Đăng nhận xét