Thứ Hai, 16 tháng 4, 2018

Triệu Quang Phục và sự khôi phục nhà nước Vạn Xuân

Triệu Quang Phục là người kế tục sự nghiệp của Lý Nam Đế. Ông là con của Thái phó Triệu Túc, người huyện Chu Diên. Triệu Quang Phục được sử sách mô tả là người uy táng dũng liệt. Ông nổi tiếng giỏi võ nghệ, cùng cha theo Lý Nam Đế khởi nghĩa từ ngày đầu (541), có công lao đánh đuổi quân Lương về nước, được trao chức Tả tướng quân nước Vạn Xuân.

Đầu năm 545, quân Lương xâm lược lại nhà nước Vạn Xuân, cuộc kháng chiến của nhà Tiền Lý thất bại. Lý Nam Đế phải lẩn tránh ở động Khuất Lão (Tam Nông tỉnh Phú Thọ ngày nay). Khí đó, Triệu Quang Phục được Lý Nam Đế giao trọng trách nắm giữ binh quyền.
Vốn thông thuộc vùng sông nước Chu Diên, Triệu Quang Phục quyết định chuyển hướng chiến lược, thay đổi phương thức tác chiến cũ là phòng ngự, cố thủ hay tập trung lực lượng quyết chiến với địch sang đánh lâu dài, tiêu hao sinh lực địch. Để thực hiện chiến lược chiến tranh này, ông đã lui quân từ miền núi về đồng bằng, lập căn cứ kháng chiến ở Dạ Trạch (bãi Màn Trò, Khoái Châu, Hưng Yên ngày nay). Nhân dân khi đó gọi Triệu Quang Phục là Dạ Trạch Vương. Khi  Lý Nam Đế qua đời, Triệu Quang Phục tự xưng Triệu Việt Vương.
Dạ Trạch là một vùng đầm lầy ven sông Hồng, rộng mênh mông, đầy lau sậy, cỏ cây um tùm, ở giữa là một bãi đất rộng cao, có thể đóng quân và làm ăn sinh sống an toàn. Địa thế ở Dạ Trạch rất hiểm trở, không quen địa hình, địa vật thì không thể tiến vào được. Đường vào bãi đất chỉ có dùng thuyền độc mộc nhẹ lướt trên cỏ nước theo mấy con lạch nhỏ thì mới tới được... Địa thế như vậy rất không có lợi cho việc hành binh của những đạo quân lớn, buộc địch phải phân tán, chia quân đánh nhỏ, làm mất sở trường của chúng, đồng thời tạo điều kiện cho ta tiêu diệt gọn từng bộ phận nhỏ, tiêu hao sinh lực địch. Đồng bằng còn là nơi đông dân cư, nơi có nhiều sức người, sức của, cung cấp cho cuộc chiến đấu lâu dài của quân ta. Được nhân dân ủng hộ, các nghĩa quân quen thủy thổ, nên Triệu Quang Phục đóng quân ở đây chờ thời cơ tiêu diệt giặc. Tại đây, ngày ngày, quân sĩ thay phiên nhau vừa luyện tập, vừa phát bờ, cuốc ruộng, trồng lúa, trồng khoai để tự túc binh lương; ban ngày tắt hết khói lửa, im hơi lặng tiếng như không có người, đến đêm nghĩa quân mới kéo thuyền ra đánh úp các trại giặc, cướp được nhiều lương thực, “làm kế trì cửu” (cầm cự lâu dài).
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Triệu Việt Vương đã có sự chuyển hướng chiến lược, thay đổi địa bàn và cách đánh. Ông chọn nơi làm căn cứ kháng chiến là đồng bằng một cách rất tinh tế, thể hiện kế sách dụng binh hết sức mưu lược và sáng suốt. Chinh chiến ở vùng đồng bằng, Triệu Quang Phục không áp dụng phương thức tác chiến phòng ngự, cố thủ hay tập trung lực lượng quyết chiến với địch. Kế sách của ông nói theo ngôn ngữ quân sự hiện đại, là đánh lâu dài và đánh tiêu hao, đánh du kích làm phương thức tác chiến chủ yếu.
Nhờ sự chuyển hướng chiến lược sáng suốt đó mà cục diện chiến tranh thay đổi ngày càng có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Quân Lương cố sức đánh vào vùng Dạ Trạch, nhằm phá vỡ đầu não kháng chiến, nhưng âm mưu đó không thực hiện được. Nghĩa quân của Triệu Quang Phục giữ vững căn cứ Dạ Trạch, liên tục tập kích các doanh trại và các cuộc hành binh của địch. Qua gần 4 năm chiến tranh (547 - 550) cuộc kháng chiến ngày càng lớn mạnh, địch càng đánh càng suy yếu. Trước tình trạng bế tắc đó, năm 550, Trần Bá Tiên quyết định xiết chặt vòng vây, chặn mọi đường tiếp tế của nhân dân cho nghĩa quân. Giữa lúc đó, bên Trung Quốc xảy ra loạn Hầu Cảnh1, buộc Trần Bá Tiên phải trở về dẹp loạn và giao lại binh quyền cho Dương Sàn.
Chớp thời cơ đó, Triệu Quang Phục, từ căn cứ Dạ Trạch, đã chỉ huy quân lực mở một loạt cuộc tiến công lớn vào quân giặc, giết tướng giặc là Dương Sàn thu lại thành Long Biên, đuổi giặc ngoại xâm, giành lại quyền tự chủ trên toàn đất nước, xây dựng lại nhà nước Vạn Xuân. Tuy nhiên, đến năm 571, Lý Phật Tử phản bội đánh úp, chiếm đoạt toàn bộ quyền hành và đất đai thuộc quyền quản lý của Triệu Quang Phục. Lý Phật Tử cũng tự xung là Lý Nam Đế nên sử cũ gọi là hậu Lý Nam Đế2.


---------------------------------------
(1): Loạn Hầu Cảnh (548 – 552): Viên hàng tướng Hầu Cảnh đã cướp kinh sư, giết chết nhiều quý tộc, quan lại nhà Lương; đến năm 557 thì cướp ngôi nhà Lương.
(2): Khi Lý Bí chạy vào động Khuất Lão thì  người anh ruột là Lý Thiên Bảo cùng một viên tướng trẻ là Lý Phật Tử chạy vào Cửu Chân, sau đó chạy vào vùng giáp biên giới Ai Lao thì dừng lại đắp thành, xưng vương, nhân dân gọi là Đào Lang Vương. Năm 555, Thiên Bảo chết, Lý Phật Tử kế nghiệp, củng cố lực lượng. Khi Triệu Việt Vương đánh bại nhà Lương, giành lại nền độc lập, khôi phục nhà nước Vạn Xuân, Lý Phật Tử tự cho mình thuộc họ Lý, có quyền kế vị Lý Nam Đế nên đem quân đánh chiếm các quận huyện, gây chiến với Triệu Quang Phục. Sau nhiều lần bất phân thắng bại, hai bên giảng hòa và phân định địa giới cai quản và kết nối thông gia: con trai họ Lý (Nhã Lang) lấy con gái hộ Triệu (Cảo Nương). Năm 571, Lý Phật Tử phản bội đem quân đánh úp, Việt Vương thua, chạy đến cửa bể Đại Nha, cùng đường gieo mình tự vẫn.
Chia sẻ:

0 nhận xét:

Đăng nhận xét