Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2018

Khởi nghĩa Bà Triệu

Tiếp nối truyền thống yêu nước sáng ngời của dân tộc, không cam chịu ách đô hộ của quân xâm lược, giữa thế kỷ thứ 3 sau công nguyên, nước ta đã diễn cuộc khởi nghĩa lớn chống ách xâm lược nhà Ngô. Lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa đó là của Bà Triệu.
Bà Triệu tên thật là Triệu Thị Trinh, quê ở huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hoá ngày nay. Anh trai bà tên là Triệu Quốc Đạt là một hào trưởng lớn ở địa phương. Bà là người có sức khoẻ, có chí lớn, có hoài bão đánh giặc ngoại xâm giành lại độc tập, tự do cho dân tộc. Truyền thuyết kể rằng, có lần xuất hiện một coi voi trắng một ngà, phá phách ruộng nương, làng xóm và làm chết người. Triệu Thị Trinh dũng cảm cầm búa nhảy lên đầu giáng xuống huyệt làm con voi lạ gục đầu, xin qui thuận. Khi có người khuyên bà lấy chồng, Bà Triệu đã đáp rằng: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ đâu chịu khom lưng là tì thiếp cho người”.
Minh họa chân dung Bà Triệu cùng nghĩa quân đánh đuổi quân xâm lược

Dưới ách độ hộ của nhà Ngô, năm 19 tuổi, Bà Triệu cùng với anh trai hô hào nhân dân khăp nơi trong vùng nổi dậy khởi nghĩa. Cuộc khởi khởi nghĩa nhanh chóng được nhân dân ta hưởng ứng mạnh mẽ, càng làm tăng thêm uy thế cuộc khởi nghĩa lan rộng khắp nơi. Quá khiếp sợ, nhà Ngô đã giao cho thứ sử Lục Dân dẫn 8000 quân sang nước ta đàn áp. Sau nhiều trận giao tranh ác liệt với giặc, anh trai bà là Triệu Quốc Đạt đã hy sinh. Bà Triệu tiếp tục chỉ huy các nghĩa quân đứng lên chống quân xâm lược. Tuy nhiên do tương quan lực lượng quá chênh lệch, liệu thế không chống nổi, Bà Triệu đã chạy lên núi Tùng Sơn tự vẫn.
“Tùng Sơn nắng quyên mây trời
Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh”
Tuy thất bại, nhưng cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu đã khẳng định tinh thần yêu nước, kiên cường chống giặc ngoại xâm của nhân dân là cội nguồn gốc rễ trường tồn. Tiếp nối tinh thần ấy của Bà Triệu, nhân dân ta lúc bấy giờ tiếp tục nổi dậy khởi nghĩa đánh đuổi quân xâm lược, bất kể triệu đại nào của Trung Quốc, từ Ngô, Tấn, Tống hay Tề, Lương, Đường sau này.

Chia sẻ:

0 nhận xét:

Đăng nhận xét