Thứ Hai, 23 tháng 4, 2018

Ngô Quyền - Chiến thắng vang danh trên sông Bạch Đằng

Chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 do Ngô Quyền lãnh đạo là một chiến công vang danh lich sử, “một vũ công cao cả, vang dội đến nghìn thu…”1 trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Hoàn cảnh lịch sử:
Năm 907, nhà Đường bị lật đổ, nhà Hậu Lương được thành lập. Năm 911, tiết độ sứ Quảng Châu của nhà Hậu Lương là Lưu Nham đã khẳng định sự tồn tại chính quyền ở Quảng Châu như một nhà nước độc lập và đặt quốc hiệu là Nam Hán.
Đất nước ta lúc bấy giờ chưa có quốc hiệu, tồn tại dưới danh nghĩa là tiết độ sứ do nhà Đường trước đó công nhận và phong cho, sau khi Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Nhưng trên thực tế và thực chất, chính quyền của dòng họ Khúc gây dựng tồn tại như một nhà nước tự chủ, độc lập, thoát hẳn sự kiểm soát của nhà Đường về mọi mặt như chính cuộc cải cách của Khúc Hạo đã thực hiện2.
Sau khu tự dựng nên nhà nước Nam Hán, năm 930, Lưu Nham đã cho quân sang xâm lược nước ta. Do thiếu chuẩn bị, chính quyền nước ta khí đó do Khúc Thừa Mỹ3 nắm quyền nhanh chóng bị quân Nam Hán chiếm đoạt. Nhiều tướng lĩnh của họ Khúc đã bất bình trước ách xâm lược của quân Nam Hán, nên đã chiêu mộ dân binh đứng lên khởi nghĩa, tiêu biểu là đạo quân của Dương Đình Nghệ4. Được nhân dân ủng hộ, cuộc khởi nghĩa của Dương Đình Nghệ giành thắng lợi hoàn toàn, giành lại nền độc lập và những thành tựu trước đó dưới thời họ Khúc gây dựng.
Năm 937, một tên nha tướng Kiều Công Tiễn đã phản bội, giết chết Dương Đình Nghệ giành lấy quyền tiết độ sứ, khiến nhân dân và nhiều tướng lĩnh bất bình. Trong số đó, tiêu biểu phải kế đến Ngô Quyền. Được tin Ngô Quyền đang dẫn đại quân từ châu Ái5 ra xử tội, Kiều Công Tiễn quá khiếp sợ, đã cầu viện nhà Nam Hán. Được cớ, vua Nam Hán đã phong cho con trai là Hoàng Tháo làm Tĩnh hải tiết độ sứ dẫn đại binh sang xâm lược nước ta. Đích thân vua Nam Hán trực tiếp chỉ huy một đạo quân đóng ở Hải Môn6 để sẵn sàng tiếp ứng cho thái tử Hoàng Tháo khi cần.
Tiểu sử, dòng dõi Ngô Quyền:
Ngô Quyền (897 – 944) quê ở xứ Đường Lâm, nay là xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Ông là con trai của Ngô Mân giữ chức Châu mục Đường Lâm; con rể của Dương Đình Nghệ. Ngô Quyền là người có sức khoẻ hơn người, có tài năng quân sự, giỏi việc trị nước. Ông đã từng tham gia xây dựng chính quyền họ Khúc ở Đại La, đã từng theo Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán lần thứ nhất, giải phóng thành Đại La năm 931. Sau đó, Ngô Quyền được Dương Đình Nghệ gả con gái và giao coi giữ châu Ái. Sách Đại Việt sử ký toàn thư, ghi răng: “Ngô Quyền có dung mạo khác thường, lưng có ba nốt ruồi. Các thầy tướng cho là lạ, rằng có thể làm chủ được một phương, nhân đó (Ngô Mân) mới đặt cho vua tên là Quyền. Khi vua lớn lên, tướng mạo khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, trí dũng hơn người, sức có thể nâng được vạc”.
Chủ trương chống quân xâm lược Nam Hán của quân và dân ta:
Chọn địa điểm quyết chiến:
Nghe tin Kiều Công Tiễn làm loạn và cầu viện Nam Hán, Ngô Quyền đã dẫn đại quân ra Giao Châu7 dẹp loạn. Được nhân dân ủng hộ và hưởng ứng, Ngô Quyền cùng các tướng lĩnh tấn công thành Đại La, nhanh chóng giết chết Kiều Công Tiễn. Dẹp xong nội loạn, Ngô Quyền vào thành họp bàn với các tướng lĩnh về kế hoạch chống ngoại xâm. Với nhãn quan quân sự sáng suốt, Ngô Quyền hội bàn với các tướng rằng: “Hoằng Thao là một đứa trẻ, đem quân từ xa đến, quân lính mệt mỏi, lại được tin Kiều Công Tiễn đã bị giết chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Song, họ có lợi ở thuyền, nếu không phòng bị trước thì chuyện được thua chưa thể biết được. Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vót nhọn đầu và bịt sắt, thuyền của họ nhân khi nước thuỷ triều lên, tiến vào bên trong hàng cọc, bây giờ ta sẽ dễ bề chế ngự, không kế gì hơn kế ấy cả”. Như vậy, Ngô quyền và các tướng lĩnh đã quyết định chọn sông Bạch Đằng làm nơi diễn ra trận quyết chiến chiến lược. Nhân dân và hào kiệt bốn phương đem quân hội tụ về Đại La dưới cờ đại nghĩa của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền, quyết tâm tiêu diệt quân xâm lược Nam Hán.
Bản đồ nước ta thời kỳ chống quân Nam Hán xâm lược 938

Xây dựng trận địa cọc trên sông Bạch Đằng:
Sông Bạch Đằng là con sông chảy giữa thị xã Quảng Yên (Quảng Ninh) và huyện Thuỷ Nguyên (Hải Phòng) thuộc hệ thống sông Thái Bình. Sông Bạch Đằng là cửa ngõ giao thông quan trọng từ biển Đông vào nước ta. Theo cửa Nam Triệu vào Bạch Đằng, địch có thể ngược lên và tiến đến thành Cổ Loa hoặc thành Đại La hoàn toàn bằng đường sông. Con sông này chảy qua một vùng núi non hiểm trở, có nhiều nhánh sông phụ đổ vào. Hạ lưu sông thấp, chịu ảnh hưởng của nước triều khá mạnh. Cửa biển rộng mênh mông, nước trải rộng ra hai bên bờ đến hơn 2km. Triều lên từ nửa đêm đến sáng, gần trưa thì triều rút mạnh, chảy rất nhanh.
Khi đó vào mùa đông năm 938, gió mùa đông bắc tràn về, thời tiết giá rét, mưa dầm kéo dài hàng nửa tháng. Với quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược, quân và dân ta ngày đêm hăng hái vào rừng chặt cây, đẽo cọc; lặn lội mưa rét, vận chuyển gỗ, dựng cọc dưới lòng sông Bạch Đằng. Chẳng bao lâu, một trận địa cọc đã hình thành dưới lòng sông theo đúng dự định.
Về nhân sự và lực lượng:
Ngô Quyền huy động một lực lượng chiến đấu lớn với nhiều tướng giỏi, như Dương Tam Kha (con trai Dương Đình Nghệ), Ngô Xương Ngập (con trai Ngô Quyền), Đỗ Cảnh Thạc, Dương Phương Lan8… Trên cơ sở phân tích quy luật lên xuống của thuỷ triều, Ngô Quyền đã phân công tướng Dương Tam Kha chỉ huy đội quân bên tả ngạn, tướng Ngô Xương Ngập và Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy đội quân bộ bên hữu ngạn, mai phục sẵn, phối hợp với thủy quân đánh tạt sườn đội hình quân địch và sẵn sàng diệt số quân địch chạy lên bờ thoát thân. Từ cửa biển ngược lên phía trên không xa là đạo thủy quân mạnh, phục sẵn do chính Ngô Quyền chỉ huy chặn ngay đường tiến lên của địch, chờ khi nước xuống sẽ xuôi dòng đánh lại đội binh thuyền địch.
Đại chiến trên sông Bạch Đằng:
Đúng theo dự định, cuối mùa đông năm 938, các đạo binh thuyền của quân Nam Hán do Hoàng Tháo chỉ huy đã nối đuôi nhau tiến vào cửa sông Bạch Đằng. Theo kế hoạch đã định, một đội nhỏ binh thuyền của ta do tướng Nguyễn Tất Tố chỉ huy tiến ra chặn địch rồi rút lui, nhằm khiêu chiến, nhử địch tiến sâu vào bên trong. Thấy quân ta bỏ chạy, quân Nam Hán đã hùng hổ tiến vào sông Bạch Đằng hòng “ăn tươi, nuốt sống” quân dân nước Việt. Nhưng chúng không ngờ đã mắc mưu - lọt vào trận địa mà ta đã bày sẵn. Khi nước thủy triều đang xuống, Ngô Quyền lệnh cho thủy quân từ các vị trí ở thượng lưu phản công chặn đầu, kết hợp với quân thủy, quân bộ mai phục hai bên bờ sông đánh vào bên sườn đội hình địch. Bị đòn đánh mạnh bất ngờ, quân địch không kịp trở tay, hoảng loạn, quay thuyền tháo chạy hòng thoát ra biển. Nước triều càng ngày càng rút nhanh và chảy xiết, những hàng cọc nhọt hoắt nhổ lên khỏi mặt nước. Từng chiếc thuyền của quân Nam Hán va vào bãi cọc và thủng vỡ tan tành. Trong thời gian ngắn, toàn bộ chiến thuyền của địch bị nhấn chìm, hầu hết quân địch bị tiêu diệt, trong đó có chủ soái Lưu Hoằng Tháo. Chiến thắng nhanh, gọn, triệt để của quân và dân ta trên sông Bạch Đằng khiến vua Nam Hán không kịp ứng phó, tiếp viện mà chỉ có cách duy nhất là “thương khóc, thu nhặt tàn quân còn sót mà rút lui”9 và từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta.
Sơ đồ trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng chống quân Nam Hán, năm 938

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc. Chiến thắng này đã thể hiện rõ tài năng quân sự của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền, đồng thời là thành quả chung của cuộc kháng chiến anh dũng, kiên cường, đầy tính sáng tạo của nhân dân ta.
-------------------------------------
(1) Theo Ngô Thời Sĩ.
(2) Sẽ có bài viết riêng về cuộc cải này của Khúc Hạo.
(3) Con của Khúc Hạo.
(4) Dương Đình Nghệ: là hào trưởng, quê ở làng Ràng (Dương Xá, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa).
(5) Châu Ái: là đợn vị hành cũ của nước ta thời kỳ đó, bao gồm 6 huyện: Cửu Chân, An Thuận, Sùng Bình, Quân Ninh, Nhật Nam, Vô Biên; là địa phận tỉnh Thanh Hoá ngày nay.
(6) Vùng giáp với Quảng Ninh nước ta.
(7) Tương ứng với vùng Bắc Bộ ngày nay.
(8) Dương Phương Lan: bà là vợ của Ngô Quyền.
          (9) Theo Đại Việt sử ký toàn thư trọn bộ, Nxb Thời đại, H. 2011, tr. 119.
Chia sẻ:

0 nhận xét:

Đăng nhận xét