Thứ Năm, 19 tháng 4, 2018

Lý Thường Kiệt - Chiến thắng trên sông Như Nguyệt phần 1

Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược của  nhân dân ta dưới triều Lý là một trong những chiến công chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Chiến thắng đó là đập tan âm mưu xâm lược của quân Tống, góp phần bảo vệ vững trắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.
Hoàn cảnh – âm mưu xâm lược của quân Tống:
Trước đó, nhà Tống đã từng xâm lược nước ta (981), nhưng bị quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn tập tan, buộc chúng phải tháo chạy về nước, từ bỏ âm mưu xâm lược. Sang thế kỷ thứ XI, nhà Tống tiếp tục âm mưu xâm lược nước ta lần thứ 2, nhằm vừa rửa nhục thua lần trước, vừa để chiếm, mổ rộng đất đai, đồng thời đánh lạc hướng dư luận các cuộc đấu tranh, nổi dậy của nhân dân trong nước và tăng uy thế nước nhà trước sự uy hiếp các nước Liêu, Hạ xung quanh. Sử Tống từng ghi: “Nếu thắng, thế Tống sẽ tăng, các nước Liêu, Hạ sẽ phải kiêng nể”.
Sự chuẩn bị xâm lược của nhà Tống:
Xâm lước nước ta lần này được nhà Tống chuẩn bị rất chu đáo và kỹ lưỡng. Nhà Tống cho xây dựng nhiều căn cứ quân sự, hậu cần vùng biên giới giáp vùng đông bắc nước ta. Chúng xây dựng thành Ung Châu (Quảng Tây) thành căn cứ xâm lược trọng yếu và tăng cường bắt lính, tập trận, tích trữ lương thảo; ở mặt nam của thành, chúng bố trí 5 trại quân dày đặc. Ngoài ra, để phục vụ cho dã tâm xâm lược, nhà Tống còn xảo quyệt tìm cách dụ dỗ, mua chuộc một số tù trưởng dân tộc miền núi của ta làm nội gián để chia rẽ, phá vỡ khối đại đoàn kết của nhân dân ta.
Sự lớn mạnh và sự chuẩn bị chống xâm lược của quân – dân ta dưới triều Lý
Sau thời kỳ Bắc thuộc, nước ta triều Lý có sự lớn mạnh về mọi mặt. Chính trị ổn định; kinh tế - văn hóa phát triển rực rỡ; quân sự được củng cố, tăng cường lớn mạnh. Quân đội chủ lực của triều đình gồm cấm quân (quân đội bảo vệ kinh thành), quân các lộ (quân canh giữ các địa phương) chia ra làm bộ binh, kỵ binh, tượng binh, thủy binh.  Dân đinh trai trang từ 10 – 20 tuổi đều phải đi lính hai năm; từ 20 tuổi trở lên triều đình cho về nhà làm ruộng, nhưng khi cần thiết buộc phải nhập ngũ tòng quân đánh giặc. Đó chính là chính sách “ngụ binh ư nông” (gửi binh ở nhà nông) của triều đình nhằm tăng cường quân lực cho nhà nước nhưng vẫn đảm bảo được sản xuất, cắt giảm chi phí về quân sự cho trung ương. Ngoài ra, các vương hầu, quý tộc và một số tù trưởng miền núi được phép có quân đội riêng dưới sự điều động của nhà nước. Các trang thiết bị phục vụ quân đội nước ta thời kỳ này cũng đa dang và hiện đại hơn. Ngoài giáo, mác, kiếm, thương, cung, nỏ… còn có máy bắn đá…
Về nhân sự, triều Lý thời điểm này có sự phục vụ của nhiều tướng giỏi, tiêu biểu phải kể đến danh tướng Lý Thường Kiện. Lý Thường Kiệt (1019 -1105) xuất thân trong gia đình võ tướng, quê ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội ngày nay. Ông có lòng yêu nước sâu sắc, là một nhà chính trị, quân sự tài ba. Đời Lý Thánh Tông (1054 – 1072), ông giữ chức Kiểm hiệu thái bảo; đời Lý  Nhân Tông (1072 -1128), ông giữ chức Phụ quốc thái uý tương đương tể tướng. Lý Thường Kiệt có nhãn quan chính trị, quân sự sắc bén. Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng tình hình mạnh yếu của đất nước và nhà Tống, ông đã táo bạo đề ra chủ trương: “Ngồi đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc”. Chủ trương “Tiên phát chế nhân” của ông đã biểu thị rõ tư tưởng quân sự sáng tạo, tích cực, lấy tiến công để tự vệ một cách chủ động.
Trên cơ sở đó, cuối năm 1075, lực lượng quân đội nước ta với khoảng 10 vạn quân dưới sự chỉ huy trực tiếp của Lý Thường Kiệt đã tấn công vào căn cứ quân sự trung tâm của nhà Tống ở Ung Châu (Quảng Tây). Tháng 01/1076, quân ta bao vây thành Ung Châu. Đến ngày 01/3/1076, toàn bộ thành trị ở đây của quân Tống bị quân ta chiếm giữ, phá huỷ toàn bộ nhằm chặn các đường tiếp viện sau này của nhà Tống. Hoàn thành xong mục tiêu đề ra, Lý Thường Kiệt rút toàn bộ quân về nước.
Chủ trương của nhà Tống:
Xâm lược nước ta lần này, vua Tống cử Quách Quỳ làm Chánh tướng và Triệu Tiết là Phó tướng chỉ huy 10 vạn quân, 1 vạn ngựa và 20 vạn phu vận chuyển quân lương cùng đội thuỷ binh sang hộ tống đường thuỷ. Như vậy, tổng số quân Tông sang xâm lược nước ta lên đến trên 30 vạn quân. Trong đó, bộ binh và kỵ binh từ Ung Châu tràn vào nước qua vùng biên giới đông bắc; còn thuỷ binh từ cửa Khâm Châu và Liêm Châu vượt biển tiến vào sông Bạch Đằng để phối hợp với bộ binh. Nhìn chung, lực lượng quân Tống lần này rất mạnh: có nhiều kinh nghiệm tác chiến, lực lượng đông cùng các loại vũ khí sát thương cao như máy bắn đá, thuốc súng, hỏa tiễn (pháo thăng thiên)…
Điểm yếu của quân Tống khi cuộc xâm lược nước ta lần này là thực hiện trong thế hoàn toàn bị động. Bởi những lý do sau: nhà Tống không thể huy động một lực lượng nhiều thêm cho cuộc xâm nước ta và ít có khả năng tiếp viện khi đang phải loay hoay đối phó các nước Liêu, Hạ có thế đột nhập đánh chiếm; đồng thời không thể thực hiện cuộc hành binh đánh chiếm dài ngày trên đất nước ta, buộc phải đánh nhanh thắng nhanh.
Chủ trương quân ta:
Trên cơ sở nắm rõ lực lượng của quân Tống, Lý Thường Kiệt chủ trương không đem toàn bộ quân ra quyết chiến trực diện ngay từ đầu, cũng không lui quân sâu phòng ngự chiến lược. Với sự cân nhắc, phân tích kỹ càng điểm yếu, điểm mạnh của quân xâm lược và tình hình thực tế của đất nước, Lý Thường Kiệt đã chủ trương lập chiến tuyến chặn đánh, phòng ngự ở nơi có lợi thế nhất nhằm chặn bước tiến quân của giặc, bảo vệ vững chắc kinh thành và nơi trọng yếu; chủ động tiêu diệt các cuộc phản công của địch buộc chúng phải bị động phòng ngự, dần dần rơi vào thế co cụm, giam hãm, bị tiêu hao, tổn thất… trên cơ sở đó, quân ta tổ chức tổng phản công tiêu diệt quân giặc, giành thắng lợi. Đây là một chủ trương đúng đắn và sáng tạo, độc đáo thể hiện nghệ thuật chiến tranh nhân dân của dân tộc ta.
Tượng đài Thái úy Lý Thường Kiệt

Đề thực hiện chủ trương trên, trước hết quân ta phải nhịp nhàng tiêu diệt được hai cánh quân của địch: cánh quân thứ nhất là bô binh và kỵ binh, cánh quân thứ hai là thủy binh. Trong đó, tinh nhuệ và chủ yếu là bộ binh và kỵ binh; còn thủy binh chỉ đóng vai trò phối hợp, tổ chức vượt sông cho bộ binh (cánh quân thủy binh của nhà Tống sẽ từ Khâm Châu vào Vĩnh An (Móng Cái – Quảng Ninh), sau đó đi thuyền theo sông Đông Kênh vào sông Bạch Đằng lên Vạn Xuân rồi vào Thăng Long. Cánh quân bộ binh và kị binh của địch sẽ từ Ung Châu tràn qua biên giới đông bắc nước ta tấn công vào kinh thành Thăng Long qua 3 con đường chính. Nhưng tất các con đương đó đều phải vượt qua sông Cầu, trong đó khúc sông từ nga ba sông Cà Lồ và sông Cầu trở về xuôi là sông Như Nguyệt có thể qua lại dễ dàng hơn, sau này đã diễn trận quyết chiến chiến lược giữa ta và địch trên sông Như Nguyệt này. Qua sông Như Nguyệt có 2 con đường bộ tiến về Thăng Long). Lý Thường Kiệt đã giao nhiệm vụ cho tướng Lý Kế Nguyên chỉ huy một lực lượng thủy binh đóng tại sông Đông Kênh với mục đích chính là chặn, cắt đứt hoàn toàn đường tiến quân của thủy binh địch vào đất liền tiếp ứng cho bộ binh. Để chặn đánh cánh quân bộ binh và kỵ binh, trên cơ sở nắm rõ địa hình, địa thế và các đường tấn công vào Thăng Long, Lý Thường Kiệt đã chọn vị trí lập chiến tuyến chống giặc ở bờ nam sông Như Nguyệt. Toàn bộ quân ta (cả bộ binh và thủy binh khoảng 6 vạn quân) được Lý Thường Kiệt bố trí như sau: một bộ phận bộ binh được đóng thành từng trại quân ở những vĩ trí xung yếu trên chiến tuyến, trong đó có 3 trại quân quan trọng đóng ở Như Nguyệt, Thị Cầu (thành phố Bắc Ninh ngày nay), Phấn Động (xã Tam Đa – huyện Yên Phong – Bắc Ninh) (mỗi trại quân đều có thủy binh phối hợp, nhưng đại bộ phận thủy binh của ta đóng ở Vạn Xuân (Phả Lại); còn đại bộ phận bộ binh của ta do Lý Thường Kiện trực tiếp chỉ huy đóng ở Thiên Đức nằm ở phía sau chiến tuyến. Đại quân của Lý Thường Kiệt đóng vai trò trọng yếu, có thể khống chế các con đường tiến về Thăng Long, tiếp viện cho các cánh quân khác, phản công đánh bại các cuộc tiến công của địch sau này.
    Chủ trương quân sự chống Tống nói chung và việc lập chiến tuyến trên sông Như Nguyệt nói riêng do Lý Thường Kiệt đề ra là rất đúng đắn, phù hợp và sáng tạo, thể hiện rõ ý chí, quyết tâm của dân tộc kiên quyết chặn đứng các đường tấn công tiến về Thăng Long của quân Tống. Các vị trí trên chiến tuyến được bố trí có chiều rộng, có chiều sâu, có trọng điểm, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cánh quân. Chiến tuyến Như Nguyệt còn thể hiện một chủ trương quân sự phòng ngự chủ động, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chế mạnh, khoét sâu những điểm yếu, hạn chế, khó khăn của địch, buộc đối phương phải bị động đối phó, làm thất bại chiến lược tấn công của chúng, từ đó quân ta chủ động phản công tiêu diệu từng cánh quân giặc.
(Còn tiếp...)
Chia sẻ:

0 nhận xét:

Đăng nhận xét