Thứ Năm, 12 tháng 4, 2018

Khởi nghĩa Hai Bà Trưng

Cách đây khoảng 2.000 năm, dưới ách đô hộ nhà Hán, nhân dân ta bị áp bức, bóc lột nặng nề. Do vậy, vào đầu xuân Canh Tý (năm 40), tại vùng Hát Môn (xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội ngày nay), Hai Bà Trưng đã phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi quân xâm lược.

Hai Bà Trưng là tên gọi chung của hai vị nữ anh hùng Trưng Trắc và Trưng Nhị. Trưng Trắc và Trưng Nhị là hai chị em, con lạc tướng huyện Mê Linh, quận Giao Chỉ (nay thuộc địa phận Thành phố Hà Nội) thuộc dòng dõi họ “Hùng”. Thân mẫu của Hai Bà là bà Trần Thị Đoan (tức Man Thiện). Trưng Trắc là người “rất hùng dũng”. Chồng bà là Thi Sách con trai lạc tướng huyện Chu Diên (Hà Tây cũ). Lãnh thổ Mê Linh và Chu Diên liền cõi, hai gia đình lạc tướng là thông gia, khiến thanh thế của họ càng thêm mạnh, uy danh càng thêm lớn.

Phác hoạ chân dung Hai Bà Trưng

Những năm đầu công nguyên, Cổ Loa với vị thế là kinh đô cổ của đất nước đã sớm trở thành một trung tâm của các cuộc nổi dậy, đấu tranh giành độc lập của nhân dân, trong đố tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.

Chính sách cai trị hà khắc, tàn bạo của nhà Đông Hán đã thôi thúc vợ chồng Trưng Trắc - Thi Sách hiệp mưu tính kế nổi dậy chống nhà Hán. Theo truyền thuyết và sử cũ, Thái thú Tô Định đã giết chết Thi Sách trước khi cuộc khởi nghĩa nổ ra. Hành vi bạo ngược của Tô Định càng làm cho Bà Trưng Trắc cùng em gái là Trưng Nhị thêm quyết tâm tiến hành cuộc khởi nghĩa đánh đổ chính quyền đô hộ, rửa nợ nước, trả thù nhà, dựng lại cơ nghiệp xưa cho các Vua Hùng.

Cửa sông Hát thuộc xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội ngày nay là nơi khởi phát công cuộc tụ nghĩa và khởi nghĩa. Thời điểm nổ ra cuộc khởi nghĩa là niên hiệu Kiến Vũ thứ 16 tức năm 40 SCN.

Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng diễn ra với khí thế hào hùng và được đông đảo nhân dân khắp nơi hưởng ứng. Xuất phát từ Hát Môn, Hai Bà đánh phá đô uý trị của giặc ở Hạ Lôi huyện Mê Linh, sau đó kéo quân xuống Tây Vu đánh chiếm Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội), từ  Cổ Loa, quân của Hai Bà vượt sông Hoàng, sông Đuống đánh chiếm Luy Lâu (nay thuộc xã Lũng Khê huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh) là châu trị và quận trị của bọn đô hộ nhà Hán. Nhờ sự đoàn kết, nhất trí của cả dân tộc, cùng với sự chỉ huy tài tình của Hai Bà Trưng, cuộc khởi nghĩa nhanh chóng giành được thắng lợi. Hoảng sợ trước khí thế ngút trời của nhân dân Âu Lạc, bọn địch không dám chống cự  bỏ chạy tháo thân về nước. Thái thú Tô Định cũng lẻn trốn về nước. Chỉ trong vòng hai tháng, nghĩa quân Hai Bà Trưng giải phóng toàn bộ đất nước (gồm 65 quận, huyện, thành), giành chủ quyền về tay dân tộc.

Thái thú Tô Định và quân giặc tháo chạy về nước

Mùa hè năm Canh tý (40) Bà Trưng Trắc được tướng sĩ bốn phương tôn lên làm vua, hiệu là Trưng Nữ Vương, đóng đô ở quê nhà là lỵ sở huyện Mê Linh cũ. Bà Trưng Nhị được phong là Bình khôi Công chúa. Các tướng sĩ khác đều được phong thưởng chức tước, tiền bạc, ruộng đất. Dân cả nước được xá thuế hai năm liền.

Bà Trưng trắc xưng Vương

Mùa hè năm 42 (niên hiệu Kiến Vũ thứ 17), nhà Đông Hán phong Mã Viện làm phục Ba tướng quân, thống lĩnh quân sĩ sang nước ta rửa nhục. Năm 43 (niên hiệu Kiến Vũ thứ 18), quân Mã Viện tiến qua Long Biên, Tây Vu đến Lãng Bạc1 ở phía đông Cổ Loa. Hai Bà Trưng đã tiến quân từ Mê Linh qua Cổ Loa xuống Lãng Bạc đánh quân xâm ược. Mã Viện là viên tướng có dày dặn kinh nghiệm trận mạc, có số quân đông, thiện chiến, có các lực lượng thủy bộ phối hợp, lại rất thành thạo lối đánh tập trung theo kiểu trận địa chiến. Vì tương quan lực lượng quá chênh lệch và sau một thời gian hồi sức trở lại, Mã Viện đã dần dần giành thế chủ động. Trong khi đó Hai Bà Trưng lực lượng vừa tập hợp, còn quá non trẻ và chưa có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, không có khả năng cầm cự lâu dài với quân xâm lược Đông Hán ở Lãng Bạc. Quân của Trưng Vương càng ngày càng bộc lộ rõ thế yếu, bị thiệt hại nặng. Có đến hàng nghìn người bị bắt và hy sinh trên chiến lũy. Nếu cứ tiếp tục duy trì lực lượng ở Lãng Bạc thì quân đội Trưng Vương sẽ không thể giữ nổi căn cứ này và có thể sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn.

Thấy tình thế khó khăn, Trưng Trắc quyết định rút quân khỏi Lãng Bạc, lui về giữ thành Cổ Loa. Thành Cổ Loa kiên cố, thủy bộ liên hoàn đã được Trưng Vương sử dụng, khai thác để hy vọng chặn đứng và tiêu diệt đoàn quân xâm lược. Tuy nhiên tòa thành Cổ Loa kiên cố cũng không giúp Hai Ba bảo toàn được lực lượng trước sức tấn công ào ạt của Mã Viện. Trưng Trắc và Trưng Nhị phải đem quân về kinh thành Mê Linh ở Hạ Lôi , sau đó về Cẩm Khê2. Mã Viện đem quân thuỷ, bộ đuổi theo. Quân giặc tấn công Cấm Khê, nghĩa quân Hai Bà lui về Hát Giang3. Cuộc cầm cự diễn ra ác liệt cuối cùng Hai Bà bị thương nặng và gieo mình xuống dòng sông Hát tự trẫm chứ không chịu sa vào tay giặc.

Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đã mở ra một bước ngoặt trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Sau hơn 200 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, lần đầu tiên nhân dân ta giành và giữ được quyền độc lập, tự chủ trong hơn ba năm.

Sau khi Hai Bà Trưng qua đời, nhân dân địa phương (nay là xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội) đã lập đền thờ là đền Hát Môn để thờ phụng Hai Bà. Hàng năm từ ngày 4 đến ngày mùng 6 tháng 3 Âm lịch, nhân dân huyện Phúc Thọ lại tổ chức Lễ hội truyền thống đền Hát Môn để tỏ lòng biết ơn công đức của Hai Bà Trưng.

-------------------------

(1) Lẵng Bạc: sách Đại Việt sử kí toàn thư (biên soạn từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVII) và Khâm định Việt sử thông giám cương mục (biên soạn thế kỉ XIX) ghi chú Lãng Bạc là Hồ Tây (Dâm Đàm) thuộc thành phố Hà Nội ngày nay. Theo nhiều nghiên cứu mới, như tác giả Đinh Văn Nhật trong cuốn Đối thoại sử học (NXB Thanh niên, 1999) thì Lãng Bạc thuộc địa phận huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.

(2) Cấm Khê: sách Đại Việt sử kí toàn thư ghi: “Vua thấy thế giặc mạnh lắm (...), lui quân về giữ Cấm Khê (Cấm Khê, sử chép là Kim Khê)” và Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi: “Cấm Khê ở về địa hạt Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây”. Vĩnh Tường ngày nay là một huyện thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Theo Đinh Văn Nhật trong cuốn Đối thoại sử học (NXB Thanh niên, 1999), Cấm Khê thuộc địa phận núi Ba Vì, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội ngày nay.

(3) Hát Giang: một đoạn của sông Đáy thuộc địa phận huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
Chia sẻ:

0 nhận xét:

Đăng nhận xét