Dưới ách thống
trị của nhà Lương, nhân dân nước ta chịu bốc lột với hằng
trăm thứ thuế, lòng oán hận
càng tăng. Ngoài ra, nhà Lương còn thực hiện
chính sách phân biệt đẳng cấp khắt
khe, chế độ sĩ tộc
hình thành1, làm cho mâu thuẫn giữa tầng lớp
quan lại đô hộ cũ với mới
ngày thêm sâu sắc, nhất là chính quyền đô
hộ nhà Lương với tầng lớp
quý tộc người Việt;
cùng với đó mâu thuẫn giữa
nhân dân ta với bọn đô hộ sâu
sắc cực điểm.
Đó chính là nguyên nhân và thời cơ chín muồi cho cuộc khởi
nghĩa Lý Bí bùng nổ vào năm 542.
Lý Bí (còn gọi là Lý Bôn) quê ở Thái Bình quận Giao Chỉ (thuộc
Sơn Tây). Ông sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (17/10/503). Bố là Lý Toản, trưởng
bộ lạc, mẹ là Lê Thị Oánh người Ái Châu (Thanh Hóa). Tổ tiên của Lý Bí vốn là
người Trung Quốc, vào cuối thời Tây Hán thì tránh sang ở Việt Nam để trốn nạn
binh đao. Qua 7 đời, đến đời Lý Bí thì dòng họ Lý đã ở Việt Nam được hơn 5 thế
kỷ. Từ nhỏ, Lý Bí đã tỏ rõ là một cậu bé thông minh, sớm hiểu biết. Khi Lý Bí 5
tuổi thì cha mất, 7 tuổi thì mẹ qua đời. Ông đến ở với chú ruột và sau đó được
một vị Pháp Tổ thiền sư đem về chùa nuôi dạy. Sau hơn 10 năm rèn sách chuyên cần, Lý Bí trở
thành người học rộng, hiểu sâu. Nhờ có tài văn võ song toàn, Lý Bí được tôn lên
làm thủ lĩnh địa phương. Ông từng được Thứ sử Tiêu Tư nhà Lương mời ra làm chức Giám quân ở Đức
Châu (huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay) nhưng do căm ghét bọn đô hộ, ông đã
từ quan về quê, liên lạc với các hào kiệt trong vùng, chiêu binh mãi mã để chuẩn
bị nổi dậy chống lại chính quyền đô hộ.
Lược đồ nước ta vào thế kỷ thứ VI thuộc đô hộ nhà Lương
Mùa xuân năm 542, Lý Bí phất cờ khởi nghĩa, hào kiệt khắp nơi
kéo về hưởng ứng, ở vùng Chu Diên có Triệu Túc và con là Triệu Quang Phục, ở
Thanh Trì (Hà Nội) có Phạm Tu, ở Thái Bình có Tinh Thiều… Trong vòng chưa đầy
ba tháng, nghĩa quân đã chiếm được hầu hết các quận, huyện, kiểm soát toàn bộ vùng
rộng lớn gồm Bắc bộ đến Nghệ An,Hà Tĩnh, cả vùng Ái Châu, An Châu (Quảng Ninh).
Đầu năm 543, nhà Lương sai thái sử Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng
sang tổ chức cuộc tấn công đàn áp. Quân ta chủ động đón đánh địch ở Hợp Phố.
Quân Lương mười phần chết đến bảy, tám phần. Tướng địch bị giết gần hết, bọn sống
sót tháo chạy về nước. Mùa xuân năm 544, Lý Bí lên ngôi hoàng đế (Lý Nam Đê), đặt
niên hiệu là Thiên Đức (đức trời), đặt tên nước là Vạn Xuân, dựng kinh đô ở Ô
Diên (nay là xã Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội) (sử cũ gọi đây là nhà Tiền Lý);
thành lập triều đình với hai ban văn, võ. Triệu Túc giúp vua cai quản mọi việc.
Tinh Thiều đứng đầu ban văn. Phạm Tu đứng đầu ban võ. Nhà nước còn cho đúc tiền đồng sử dụng trong nước. Đây tiền đồng đầu tiên
của nước ta.
Lược đồ khởi nghĩa Lý bí ,dựng nước Vạn Xuân 542-544
Đầu năm Ất Sửu (545), nhà Lương sai Dương Phiêu và Trần Bá
Tiên đem quân dồn sức tấn công nước Vạn Xuân nhằm chiếm lại Giao Châu. Lý Nam Đế
đem quân đánh chặn ở Chu Diên nhưng không cản được giặc. Sau đó, Lý Nam Đế rút
về giữ ở sông Tô Lịch, tiếp đó lui quân về thành Gia Ninh (Bạch Hạc) và sau đó
lui quân về vùng đất Tân Xương (Phú Thọ) xây dựng lực lượng chống giặc. Tháng
10/546, Lý Nam Đế tổ chức 2 vạn quân ra đóng ở Điển Triệt (Lập Thạch – Vĩnh Phúc).
Quân Lương tiếp tục tấn công lên, Lý Nam Đế phải rút vào động Khuất Lão và giao
binh quyền cho Triệu Quang Phục – một tướng trẻ có tài năng. Hai năm sau, Lý
Nam Đế mất vào ngày 20 tháng 3 năm Mậu Thìn (13/4/548).
Các nhà sử học khẳng định rằng trong thời Bắc thuộc
và chống Bắc thuộc, kéo dài hơn 1.000 năm, cuộc khởi nghĩa Lý Bí nói riêng và
vương triều Tiền Lý nói chung giữ một vị trí rất quan trọng. Cuộc khởi nghĩa Lý
Bí đã thu được thắng lợi vang dội nhất và giành được quyền độc lập, tự chủ lâu
dài nhất. Trong lịch sử nước nhà, việc Lý Bí đặt tên nước là Vạn Xuân, tự xưng
là hoàng đế, định niên hiệu, lập một triều đình ngang hàng với nước lớn phương
Bắc là sự khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc, sự bền vững muôn đời của đất
trời phương Nam.
-------------------
(1): Theo chế độ này: những người không thuộc dòng dõi quý tộc thì không được giữ các chức quan trọng. Các gia đình thế phiệt nắm giữ hết quyền hành. Chế độ phân biệt đối xử rất trắng trợn. Các quan lại và cả quý tộc Hán trước đây cùng quý tộc người Việt đều bị coi là hàn môn, không được trọng đãi, cất nhắc. Chỉ có bọn tôn thất nhà Lương, các bà con thân thích, họ hàng với các quan lại cao cấp của nhà Lương mới thuộc loại sĩ tộc.
-------------------
(1): Theo chế độ này: những người không thuộc dòng dõi quý tộc thì không được giữ các chức quan trọng. Các gia đình thế phiệt nắm giữ hết quyền hành. Chế độ phân biệt đối xử rất trắng trợn. Các quan lại và cả quý tộc Hán trước đây cùng quý tộc người Việt đều bị coi là hàn môn, không được trọng đãi, cất nhắc. Chỉ có bọn tôn thất nhà Lương, các bà con thân thích, họ hàng với các quan lại cao cấp của nhà Lương mới thuộc loại sĩ tộc.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét