Vùng đất Châu Hoan (Nghệ Tĩnh) lúc bấy giờ luôn bị giặc Chà Và
(Java), Côn Lôn (Malaysia) cướp phá, thêm nữa là là ách đô hộ tàn bạo của nhà
Đường làm cho nhân dân vô cùng khổ sở. Đặc biệt, nạn cống quả lệ chi (quả vải)
cho Dương Quý Phi - một ái phi của vua nhà Đường ở Trường An, là một gánh nặng
khôn cùng đối với nhân dân Hoan Châu. Cũng như mọi người dân đất Việt, Mai Thúc
Loan phải đi phu, quanh năm phục dịch vất vả cho bọn đô hộ nhà Đường.
Mai Thúc Loan người làng Mai Phụ
(còn có tên là Kề Mồm), một làng chuyên làm muối ở cửa biển Thạch Hà (huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Dân cư ở đây phần lớn mang họ Mai. Sau, mẹ ông đưa con sang
sống ở Ngọc Trừng (huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Ngay từ nhỏ, Mai Thúc Loan đã
phải kiếm củi, chăn trâu, cày ruộng cho nhà giàu. Ông rất khôi ngô, tuấn tú, khoẻ mạnh, người đen trũi, nổi tiếng giỏi vật cả một vùng. Tuy xuất
thân bình dân nghèo khổ, nhưng ông có chí lớn, tập hợp được thanh niên và nhân
dân trong vùng khởi nghĩa, quyết tâm đánh đổ chính quyền đô hộ nhà Đường, giành
lại độc lập cho nước nhà. Sau khi đã tổ chức được lực lượng, xây dựng được căn
cứ, Mai Thúc Loan phát động cuộc khởi nghĩa. Tháng 4 năm Quý Sửu (713), Mai
Thúc Loan kêu gọi những người dân phu gánh vải quả nộp cống cho chính quyền nhà
Đường nổi dậy khởi nghĩa.
(Phác họa chân dung Mai Thúc Loan)
Cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan được nhân dân khắp vùng Thanh,
Nghệ Tĩnh hưởng ứng. Nghe tin ông dựng cờ khởi nghĩa, nhân tài khắp các châu
Hoan, Diễn, Ái (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) cũng đến tụ tụ cờ bái yết, nguyện một lòng vì nước. Quân khởi nghĩa nhanh chóng chiếm được Hoan Châu. Nghĩa
quân lập tức tôn Mai Thúc Loan lên làm Hoàng Đế, đóng đô ở thành Vạn An, Sử gọi
ông là Mai Hắc Đế (Vua đen họ Mai).
Sau khi lên ngôi
vua, Mai Hắc Đế thành lập triều đình, xây dựng chính quyền mới, kêu gọi nhân
dân các châu huyện cùng nổi dậy chiến đấu. Người Việt miền xuôi cũng như miền
núi đều hưởng ứng và tham gia nghĩa quân. Không những thế ông còn còn cử người liên kết
với các nước Champa, Chân Lạp ở phía tây và cả nước Kim Lân (Malaysia hiện nay)
để có thêm lực lượng chống nhà Đường. Sau thời gian xây dựng, phát triển lực
lượng, nghĩa quân tiến ra Bắc đánh đuổi bọn đô hộ, giải phóng đất nước. Từ Vạn
An, có một số quân từ các nước thuộc bán đảo Đông Dương giúp sức, nghĩa quân
tiến ra Bắc, tiến công phủ thành Tống Bình (Hà Nội). Bè lũ đô hộ Quang Sở
Khách, trước khí thế ngút ngàn của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của
người Việt, đã bỏ thành, chạy tháo thân về nước. Đất nước được giải phóng, lực
lượng nghĩa quân phát triển tới hàng chục vạn người.
Đền thờ Mai Hắc Đế - thị trấn Nam Đàn, Nghệ An
Nhưng lúc này nhà Đường còn mạnh. Năm 722, vua Đường cử tướng
Dương Tư Húc, tướng hàng đầu của triều đình nhà Đường, đem 10 vạn quân cùng
Quang Sở Khách tiến sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Sau nhiều trận đánh khốc liệt,
từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Lam, cuối cùng Mai Hắc Đế thất trận,
nghĩa quân tan vỡ, một bộ phận rút vào rừng. Hiện nay, ở thung lũng Hùng Sơn
(Rú Đụn) còn lăng mộ cha con Mai Hắc Đế. Theo truyền thuyết dân gian sau khi
Mai Hắc Đế bị bệnh mất ở trong rừng, con ông đã nối ngôi được một thời gian,
tức là Mai Thiệu Đế.
Đền thờ và lăng mộ Vua Mai tại chân Rú Đụn, xã Vân Diên - Nam Đàn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét