Thứ Tư, 25 tháng 4, 2018

Lê Hoàn - cuộc kháng chiến chống Tống xâm lược

Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn (981) là sự tiếp nối, phát huy truyền thống yêu nước quật cường, bất khuất của dân tộc. Chiến thắng đó mãi mãi là bản anh hùng ca bất tử lưu truyền môn đời sau.
* Hoàn cảnh lịch sử:
Cuối năm 979, vua Đinh Tiên Hoàng và con là Đinh Liễn bị tên quan Đỗ Thích sát hại. Con trai thứ là Đinh Toàn còn nhỏ, mới 5 tuổi lên nối ngôi. Quan lại nhà Tống ở Hoa Nam dò được tình hình nước ta như vậy, đã báo về cho triều đình nhà Tống nhân cơ hội này đem quân xâm lược nước ta. Năm 980, Hầu Nhân Bảo - quan trấn thủ Ung Châu của Đại Tống dâng thư lên vua Tống rằng: “An Nam quân vương và con là Liễn đều bị giết, nước đã gần mất, có thể nhân lúc này đem quân địa phương đánh lấy được”.
Tạo hình vua Lê Hoàn

Nắm được tình hình Đại Cồ Việt như vậy, vua Tống mừng rỡ và phong Hầu Nhân Bảo làm Giao Châu chuyển vận sứ cùng Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ, Lưu Trừng, Giả Thực… kéo quân sang xâm lược nước ta.
Mùa thu năm 980, quan trấn thủ Lạng Châu (Lạng Sơn) báo tin cho triều đình việc quân Tống chuẩn bị đánh xuống nước ta. Khí đó, Thái hậu Dương Vân Nga đã họp bàn với các triều thần và giao cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn tuyển tướng, luyện quân, chuẩn bị cuộc kháng chiến chống quân xâm lược; đồng thời phong Phạm Cự Lạng làm đại tướng. Khi đó, Phạm Cự Lạc nói rằng: “Thưởng người có công, phạt kẻ không vâng lệnh, đó là phép hành binh. Bây giờ chúa thượng hãy còn thơ ấu, bọn ta dẫu hết sức liều chết, may mà có chút công lao thì ai biết cho. Chi bằng trước hãy tôn ngay Thập đạo tướng quân (Lê Hoàn) làm thiên tử, sau sẽ ra quân”. Nghe vậy, mọi người đều đồng tình hưởng ứng. Thái Hậu Dương Vân Nga bèn sai lấy áo long bào khoác lên mình Lê Hoàn, cùng các tướng mời Lê Hoàn lên làm vua. Đánh dấu mốc thành lập triều đại mới, sử gọi là nhà Tiền Lê.
* Công tác chuẩn bị xâm lược và chống xâm lược:
Đối với nhà Tống:
Triều Tống đã ban chiếu thành lập bộ chỉ huy lực lượng viễn chinh xâm lược nước ta. Trong bộ chỉ huy này, Hầu Nhân Bảo làm Tổng tư lệnh kiêm Giao Chỉ1 lộ Thủy lục kế độ Chuyển vận sứ; các tướng lĩnh cao cấp, gồm có: Tôn Toàn Hưng, Hứa Trọng Tuyên, Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn và Trần Khâm Tộ được phong làm Phó Tổng tư lệnh. Bộ Chỉ huy này dẫn khoảng 4 vạn quân Tống thực hiện kế hoạch thôn tính lãnh thổ nước ta. Trong lực lượng chinh phạt này, thành phần cấm quân2 là thành phần chủ yếu và được nhà Tống chia quân làm 2 đạo quân chính với 2 hướng tấn công vào nước ta theo hai hướng khác nhau. Đạo quân thứ nhất là lực lượng bộ binh, do Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng và Trần Khâm Tộ chỉ huy từ Ung Châu tiến vào; đạo quân thứ hai là thủy quân do Lưu Trừng, Giả Thực chỉ huy, từ Quảng Châu tiến vào.
Đối với quân – dân Đại Cồ Việt:
Để chuẩn bị kháng chiến chống quân xâm lược, một mặt vua Lê Hoàn cùng các tướng lĩnh bàn định, thảo luận, sau đó quyết đánh địch trên cả hai tuyến thủy, bộ nhằm phá tan âm mưu phối hợp hai đoàn quân thủy, bộ của chúng. Ông đã bố trí lực lượng dọc theo tuyến sông Bạch Đằng, sông Kinh Thầy kéo dài cho đến vùng Lục Đầu Giang (thuộc địa phận tỉnh Thái Bình ngày nay). Trong đó, lực lượng tập trung cao nhất là ở vùng cửa biển Bạch Đằng – nơi đoàn thuyền chiến của địch vừa mới tiến vào vùng Lục Đầu Giang – nơi hợp quân của hai đoàn quân thủy, bộ của quân Tống. Mặt khác nhà vua cho người sang nhà Tống dâng sớ giả vờ xin được lập Đinh Toàn làm vua, nhằm gây thêm sự chủ quan, kiêu ngạo của quân Tống và tăng thêm thời gian chuẩn bị lực lượng kháng chiến của quân – dân ta.
* Diễn biến quân – dân Đại Cồ Việt đánh tan quân Tống xâm lược
Tháng 4/981, quân Tống ào ạt kéo quân vào nước ta theo hai hướng như đã trình bày ở phần trên. Theo kế hoạch, Lê Hoàn cho quân ra cửa sông Bạch Đằng chặn đường tiến quân của giặc. Lúc đầu, quân ta giả vờ thua nhằm tăng tính chủ quan, kiêu ngạo của giặc, sau đó tấn công mạnh đánh tan quân giặc, khiến chúng phải rút lui.


 Sơ đồ cuộc kháng chiến chống Tống xâm lược (981)

Chờ không thấy thuỷ quân tiếp ứng, Tổng tư lệnh Hầu Nhân Bảo truyền lệnh buộc Phó tư lệnh Tôn Toàn Hưng3 tiến xuống, nhưng Tôn Toàn Hưng không vâng lệnh. Quá nôn nóng, Hầu Nhân Bảo vội đem quân đánh xuống theo đường sông Chi Lăng (sông Thương). Khi đi đến điểm phục kích của quân ta do vua Lê Hoàn chỉ huy, toàn bộ quân giặc bị tiêu diệt, chủ tướng Hầu Nhân Bảo bị giết chết. Được tin Hầu Nhân Bảo chết trận, tướng Trần Khâm Tộ (đóng ở Tây Kết, Khoái Châu, Hưng Yên) hoảng sợ, vội rút quân tháo chạy về nước, nhưng bị quân ta truy kích, tiêu diệt quá nửa số quân cùng tên chủ tướng, đồng thời hai tên tướng Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân bị bắt sống. Tin thất bại thẳm hại làm cho vua Tống xấu mặt và nóng giận, trút mọi tội lỗi lên đầu lũ bại tướng. Tướng Tôn Toàn Hưng, Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn tên thì bị xử tử, tên thì bị bắt giam đến chết. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn thắng lợi.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược đã làm nức lòng nhân dân cả nước, củng cố vững chắc lòng tin vạo khả năng bảo vệ độc lập của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi này đã giáng một đòn nặng nề vào tư tưởng bành trướng của triều đình phong kiến nhà Tống. Tên tuổi của vua Lê Đại Hành cùng các tướng sĩ cả nước và Thái hậu Dương Vân Nga mãi mãi được ghi công trong sử sách nước nhà.

----------------

(1) Nhà Tống gọi nước ta khi đó là Giao Chỉ.
(2) Cấm quân là lực lượng chủ lực và cơ động của quân đội Tống.
(3) Bấy giờ đang đóng tại Hoa Bộ (Nam Quảng Đông – Trung Quốc).
Chia sẻ:
Đọc thêm →

Thứ Ba, 24 tháng 4, 2018

Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, khai sinh nước Đại Cồ Việt

Đinh B Lĩnh (924 – 979) sinh vào ngày Rm tháng Hai, năm Giáp Thân (924), quê thôn Kim Lư, làng Đi Hu, châu Đi Hoàng (nay thuc xã Gia Phương, Gia Vin, Ninh Bình). Cha ca ông là Đinh Công Tr, nha tướng ca Dương Đình Ngh, gi chc th s Hoang Châu. Cha mt sm, Đinh B Lĩnh theo m v quê ngoi (Gia Thy - Nho Quan - Ninh Bình) sinh sống. T bé, Đinh B Lĩnh đã t ra là người có kh năng ch huy, ông cùng các bn chăn trâu ly bông lau làm c bày trn giả đánh nhau. Sau này, Đinh B Lĩnh cũng là người có công quyết đinh trong vic dp lon 12 s quân, thng nht đt nước, lp ra nhà nước Đi C Vit - nhà nước phong kiến tp quyn đu tiên trong lch s dân tc Vit Nam.
Hoàn cảnh lịch sử:
Loạn 12 sứ quân:
Năm 944, Ngô Quyền mất, Dương Tam Kha1 cướp ngôi, tự lập mình làm vua, xưng là Dương Bình Vương. Sự kiện này đánh dấu mốc mở đầu đất nước ta chính thức bước vào thời kỳ loạn 12 sứ quân.
Bị cậu ruột cướp ngôi, sợ bị tiêu diệt, Ngô Xương Ngập2 chạy trốn, đến trú ẩn  nhà hào trưởng Phạm Lệnh Công (làng Trà Hương, Nam Sách, Hải Dương). Được Phạm Lệnh Công che chở, nuôi giấu tận tình, Ngô Xương Ngập đều an toàn, giữ được tính mạng trước ba lần truy bắt của Dương Tam Kha.
Năm 950, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn3 đi đánh 2 thôn Đường và Nguyễn  Thái Bình (Quốc Oai – Hà Nội ngày nay). Được sự ủng của các tướng Đỗ Cảnh Thạc và Dương Cát Lợi, đồng thời nhận thấy đây là các thôn vô tội, Ngô Xương Văn đã dẫn quân quay về kinh đô lật đổ Dương Tam Kha. Ngô Xương Văn tự xưng là Nam Tấn Vương, đóng đô ở C Loa và cho người đón anh trai Ngô Xương Ngp về cùng làm vua. Ngô Xương Ngập tự xưng là Thiên Sách Vương. Như vậy, nước ta khi đó tồn tại hai vua: Nam Tấn Vương và Thiên Sách Vương. Sử sách gọi là Hậu Ngô Vương.
Tình hình đất nước thời điểm này càng ngày càng rối loạn. Các thổ hào, tù trưởng các vùng, các tướng lĩnh của họ Ngô và cả con cháu của các quan chức nhà Đường cũ đã nổi lên cát cứ, phân tranh các vùng, đánh chiếm lẫn nhau. Mặc dù, Ngô Xương Văn đã nhiều lần đem binh đi đàn áp các cuộc nổi loạn nhưng không thành. Đặc biệt từ khi Ngô Xương Ngập (mất năm 954) và Ngô Xương Văn mất (965), chính quyền nhà Ngô càng suy yếu, khiến cho đất nước hoàn toàn rối loạn, bởi sự phân tranh, đánh chiếm giữa các sứ quân, trong đó nổi lên 12 vùng đất biệt lập, do 12 thủ lĩnh đứng đầu, mà sử gọi là 12 sứ quân: Ngô Xương Xí (con Ngô Xương Ngập) giữ Bình Kiều - Triệu Sơn - Thanh Hóa; Đỗ Cảnh Thạc tự xưng là Đỗ Cảnh Công, giữ vùng Bảo Đà - Thanh Oai - Hà Nội; Trần Lãm tự xưng là Trần Minh Công, giữ Bố Hải Khẩu - Kỳ Bố - Thái Bình; Kiều Công Hãn tự xưng Kiều Tam Chế, giữ Phong Châu - Lâm Thao - Phú Thọ; Nguyễn Khoan tự xưng Nguyễn Thái Bình, giữ Tam Đái – Phú Thọ và Yên Lạc - Vĩnh Phúc; Ngô Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lãm Công, giữ Đường Lâm - Sơn Tây - Hà Nội; Lý Khuê tự xưng là Lý Lãng Công, giữ Siêu Loại - Thuận Thành - Bắc Ninh; Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh Công, giữ Tiên Du - Bắc Ninh; Lữ Đường tự xưng là Lữ Tá Công, giữ Tế Giang - Văn Giang - Hưng Yên; Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công, giữ Tây Phù Liệt - Thanh Trì - Hà Nội; Kiều Thuận tự xưng là Kiều Lệnh Công, giữ Cẩm Khê  - Hà Nội; Phạm Bạch Hổ tự xưng là Phạm Phòng Át, giữ Đằng Châu - Hưng Yên.
 Sơ đồ cát cứ của 12 sứ quân

Nguy cơ xâm lược của ngoại bang:
Năm 960, nhà Tống bên Trung Quốc được thành lập, chấm dứt thời kỳ “ngũ đại thập quốc”4. Sau khi được thành lập, nhà Tống thực hiện chính sách mở rộng xuống phía nam. Vì vậy, đất nước ta khi đó đang đứng trước nguy cơ bị ngoại xâm đe doạ nên cần phải thống nhất, xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền vững mạnh.

Dẹp loạn 12 sứ quân và khai sinh Nhà nước Đại Cồ Việt:
Lớn lên trong hoàn cảnh đất nước như vậy, Đinh Bộ Lĩnh cùng với những người bạn thân thiết như Đinh Điền, Nguyễn Bặc đã đứng lên tập hợp lực lượng, rèn vũ khí, chiếm giữ vùng Hoa Lư, chờ thời cơ dẹp loạn. Căn cứ của ông dần mở rộng từ Hoa Lư ra đến vùng đồng bằng ven biển sông Hồng. Để tăng thêm lực lượng, Đinh Bộ Lĩnh đã liên kết với sứ quân Trần Lãm  Thái Bình, bằng việc đưa con trai là Đinh Liễn sang đầu quân cho Trần Lãm. Sau đó, Đinh Bộ Lĩnh được Trần Lãm trao toàn bộ binh quyền và tiếp tục chiêu mộ binh lính, xây dựng lực lượng, hòng thu phục các sứ quân.
Mở đầu, ông đã chiêu phục dụ hàng được sứ quân của Phạm Bạch Hổ (Hưng Yên). Sau đó, ông dẫn đại binh ra Giao Châu lần lượt đánh bại, chiêu dụ được các sứ quân còn lại.
Đối với 2 sứ quân Ngô Nhật Khánh và Ngô Xương Xí, Đinh Bộ Lĩnh không dùng binh đao mà dùng kế dụ hàng.
Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc rất mạnh, có thành cao và hào sâu. Để thu phục được sứ quân này, ông kết hợp cả dùng mưu và quân sự mạnh. Ban đêm, Đinh Bộ Lĩnh cho quân bao vậy 4 mặt thành và tiến đánh bất ngờ vào Trại Quyền của sứ quân. Khi đó, Đỗ Cảnh Thạc đang  đồn Bảo Đà, không ứng cứu được nhau. Hai bên tiếp tục giao tranh hơn một năm. Cuối cùng, Đỗ Cảnh Thạc bị trúng tên và chết. Đinh Bộ Lĩnh hạ được thành.
Biết Đinh Bộ Lĩnh chuẩn bị đánh thành, sứ quân Nguyễn Siêu đem một vạn quân đóng  Thanh Đàm - Hà Nội, chuẩn bị nghênh chiến. Trong trận giao đấu đầu tiên, bên nghĩa quân Đinh Bộ Lĩnh bị mất 4 tướng (Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục, Đinh Thiết, Cao Sơn). Sau đó, sứ quân Nguyễn Siêu chia một nửa quân giữ trại, một nửa vượt sông tìm viện binh các sứ khác. Đang vượt sông, cánh quân này bị gió lớn làm đắm thuyền. Biết tin, Đinh Bộ Lĩnh cho quân tấn công tiêu diệt. Sứ quân Nguyễn Siêu bị giết chết.
Đối với sứ quân Kiều Công Hãn: thấy nghĩa quân của Đinh Bộ Lĩnh quá mạnh, nên chạy vào Thanh Hoá để liên kết với sứ quân Ngô Xương Xí. Nhưng chạy đến Vạn Kiếp (Nam Định) thì bị hào trưởng địa phương là Nguyễn Tấn đem quân chặn đánh. Kiều Công Hãn bị thương, bỏ chạy, sau đó thì mất. Các sứ quân còn lại tiếp tục bị nghĩa quân của Đinh Bộ Lĩnh đánh bại hoặc thu phục quy hàng. Đến cuối năm 967, cuộc chinh chiến dẹp loạn kết thúc. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đai Cồ Việt, niên hiệu là Thái Bình, kinh đô là Hoa Lư. Một quốc gia độc lập, có quốc hiệu, có nhà nước riêng, do hoàng đế đứng đầu đã được xác lập.
Thắng lợi của Đinh Bộ Lĩnh trong dẹp loạn 12 sứ quân và lập nên nhà nước Đại Cồ Việt là thắng lợi của tinh thần tự lập, tự cường, tự tôn dân tộc. Đó cũng là thắng lợi có tính thời đại sâu sắc – thống nhất quốc gia, xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền vững mạnh, trước nguy cơ xâm lấn của ngoại bang phương bắc - mở đầu cho các triều đại phong kiến nước ta sau này.

-------------------------------------
(1) Em vợ của Ngô Quyền.
(2) Con trai cả của Ngô Quyền.
(3) Con trai thứ hai của Ngô Quyền và được Dương Tam Kha nhận làm con nuôi.
(4) Ngũ đại thập quốc: là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi nhà Đường diệt vong, kéo dài đến khi nhà Tống thống nhất Trung Quốc. Sau khi nhà Đường sụp đổ, các phiên trấn phia các cứ và tự lập quốc. Trong đó, có 5 nước có lực mạnh nhất gọi là ngũ đại; ngoài ra còn nhiều phiên trấn (nước) khác, nhưng chỉ có 10 nước có lực tương đối mạnh gọi là thập quốc.

Chia sẻ:
Đọc thêm →

Thứ Hai, 23 tháng 4, 2018

Ngô Quyền - Chiến thắng vang danh trên sông Bạch Đằng

Chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 do Ngô Quyền lãnh đạo là một chiến công vang danh lich sử, “một vũ công cao cả, vang dội đến nghìn thu…”1 trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Hoàn cảnh lịch sử:
Năm 907, nhà Đường bị lật đổ, nhà Hậu Lương được thành lập. Năm 911, tiết độ sứ Quảng Châu của nhà Hậu Lương là Lưu Nham đã khẳng định sự tồn tại chính quyền ở Quảng Châu như một nhà nước độc lập và đặt quốc hiệu là Nam Hán.
Đất nước ta lúc bấy giờ chưa có quốc hiệu, tồn tại dưới danh nghĩa là tiết độ sứ do nhà Đường trước đó công nhận và phong cho, sau khi Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Nhưng trên thực tế và thực chất, chính quyền của dòng họ Khúc gây dựng tồn tại như một nhà nước tự chủ, độc lập, thoát hẳn sự kiểm soát của nhà Đường về mọi mặt như chính cuộc cải cách của Khúc Hạo đã thực hiện2.
Sau khu tự dựng nên nhà nước Nam Hán, năm 930, Lưu Nham đã cho quân sang xâm lược nước ta. Do thiếu chuẩn bị, chính quyền nước ta khí đó do Khúc Thừa Mỹ3 nắm quyền nhanh chóng bị quân Nam Hán chiếm đoạt. Nhiều tướng lĩnh của họ Khúc đã bất bình trước ách xâm lược của quân Nam Hán, nên đã chiêu mộ dân binh đứng lên khởi nghĩa, tiêu biểu là đạo quân của Dương Đình Nghệ4. Được nhân dân ủng hộ, cuộc khởi nghĩa của Dương Đình Nghệ giành thắng lợi hoàn toàn, giành lại nền độc lập và những thành tựu trước đó dưới thời họ Khúc gây dựng.
Năm 937, một tên nha tướng Kiều Công Tiễn đã phản bội, giết chết Dương Đình Nghệ giành lấy quyền tiết độ sứ, khiến nhân dân và nhiều tướng lĩnh bất bình. Trong số đó, tiêu biểu phải kế đến Ngô Quyền. Được tin Ngô Quyền đang dẫn đại quân từ châu Ái5 ra xử tội, Kiều Công Tiễn quá khiếp sợ, đã cầu viện nhà Nam Hán. Được cớ, vua Nam Hán đã phong cho con trai là Hoàng Tháo làm Tĩnh hải tiết độ sứ dẫn đại binh sang xâm lược nước ta. Đích thân vua Nam Hán trực tiếp chỉ huy một đạo quân đóng ở Hải Môn6 để sẵn sàng tiếp ứng cho thái tử Hoàng Tháo khi cần.
Tiểu sử, dòng dõi Ngô Quyền:
Ngô Quyền (897 – 944) quê ở xứ Đường Lâm, nay là xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Ông là con trai của Ngô Mân giữ chức Châu mục Đường Lâm; con rể của Dương Đình Nghệ. Ngô Quyền là người có sức khoẻ hơn người, có tài năng quân sự, giỏi việc trị nước. Ông đã từng tham gia xây dựng chính quyền họ Khúc ở Đại La, đã từng theo Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán lần thứ nhất, giải phóng thành Đại La năm 931. Sau đó, Ngô Quyền được Dương Đình Nghệ gả con gái và giao coi giữ châu Ái. Sách Đại Việt sử ký toàn thư, ghi răng: “Ngô Quyền có dung mạo khác thường, lưng có ba nốt ruồi. Các thầy tướng cho là lạ, rằng có thể làm chủ được một phương, nhân đó (Ngô Mân) mới đặt cho vua tên là Quyền. Khi vua lớn lên, tướng mạo khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, trí dũng hơn người, sức có thể nâng được vạc”.
Chủ trương chống quân xâm lược Nam Hán của quân và dân ta:
Chọn địa điểm quyết chiến:
Nghe tin Kiều Công Tiễn làm loạn và cầu viện Nam Hán, Ngô Quyền đã dẫn đại quân ra Giao Châu7 dẹp loạn. Được nhân dân ủng hộ và hưởng ứng, Ngô Quyền cùng các tướng lĩnh tấn công thành Đại La, nhanh chóng giết chết Kiều Công Tiễn. Dẹp xong nội loạn, Ngô Quyền vào thành họp bàn với các tướng lĩnh về kế hoạch chống ngoại xâm. Với nhãn quan quân sự sáng suốt, Ngô Quyền hội bàn với các tướng rằng: “Hoằng Thao là một đứa trẻ, đem quân từ xa đến, quân lính mệt mỏi, lại được tin Kiều Công Tiễn đã bị giết chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Song, họ có lợi ở thuyền, nếu không phòng bị trước thì chuyện được thua chưa thể biết được. Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vót nhọn đầu và bịt sắt, thuyền của họ nhân khi nước thuỷ triều lên, tiến vào bên trong hàng cọc, bây giờ ta sẽ dễ bề chế ngự, không kế gì hơn kế ấy cả”. Như vậy, Ngô quyền và các tướng lĩnh đã quyết định chọn sông Bạch Đằng làm nơi diễn ra trận quyết chiến chiến lược. Nhân dân và hào kiệt bốn phương đem quân hội tụ về Đại La dưới cờ đại nghĩa của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền, quyết tâm tiêu diệt quân xâm lược Nam Hán.
Bản đồ nước ta thời kỳ chống quân Nam Hán xâm lược 938

Xây dựng trận địa cọc trên sông Bạch Đằng:
Sông Bạch Đằng là con sông chảy giữa thị xã Quảng Yên (Quảng Ninh) và huyện Thuỷ Nguyên (Hải Phòng) thuộc hệ thống sông Thái Bình. Sông Bạch Đằng là cửa ngõ giao thông quan trọng từ biển Đông vào nước ta. Theo cửa Nam Triệu vào Bạch Đằng, địch có thể ngược lên và tiến đến thành Cổ Loa hoặc thành Đại La hoàn toàn bằng đường sông. Con sông này chảy qua một vùng núi non hiểm trở, có nhiều nhánh sông phụ đổ vào. Hạ lưu sông thấp, chịu ảnh hưởng của nước triều khá mạnh. Cửa biển rộng mênh mông, nước trải rộng ra hai bên bờ đến hơn 2km. Triều lên từ nửa đêm đến sáng, gần trưa thì triều rút mạnh, chảy rất nhanh.
Khi đó vào mùa đông năm 938, gió mùa đông bắc tràn về, thời tiết giá rét, mưa dầm kéo dài hàng nửa tháng. Với quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược, quân và dân ta ngày đêm hăng hái vào rừng chặt cây, đẽo cọc; lặn lội mưa rét, vận chuyển gỗ, dựng cọc dưới lòng sông Bạch Đằng. Chẳng bao lâu, một trận địa cọc đã hình thành dưới lòng sông theo đúng dự định.
Về nhân sự và lực lượng:
Ngô Quyền huy động một lực lượng chiến đấu lớn với nhiều tướng giỏi, như Dương Tam Kha (con trai Dương Đình Nghệ), Ngô Xương Ngập (con trai Ngô Quyền), Đỗ Cảnh Thạc, Dương Phương Lan8… Trên cơ sở phân tích quy luật lên xuống của thuỷ triều, Ngô Quyền đã phân công tướng Dương Tam Kha chỉ huy đội quân bên tả ngạn, tướng Ngô Xương Ngập và Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy đội quân bộ bên hữu ngạn, mai phục sẵn, phối hợp với thủy quân đánh tạt sườn đội hình quân địch và sẵn sàng diệt số quân địch chạy lên bờ thoát thân. Từ cửa biển ngược lên phía trên không xa là đạo thủy quân mạnh, phục sẵn do chính Ngô Quyền chỉ huy chặn ngay đường tiến lên của địch, chờ khi nước xuống sẽ xuôi dòng đánh lại đội binh thuyền địch.
Đại chiến trên sông Bạch Đằng:
Đúng theo dự định, cuối mùa đông năm 938, các đạo binh thuyền của quân Nam Hán do Hoàng Tháo chỉ huy đã nối đuôi nhau tiến vào cửa sông Bạch Đằng. Theo kế hoạch đã định, một đội nhỏ binh thuyền của ta do tướng Nguyễn Tất Tố chỉ huy tiến ra chặn địch rồi rút lui, nhằm khiêu chiến, nhử địch tiến sâu vào bên trong. Thấy quân ta bỏ chạy, quân Nam Hán đã hùng hổ tiến vào sông Bạch Đằng hòng “ăn tươi, nuốt sống” quân dân nước Việt. Nhưng chúng không ngờ đã mắc mưu - lọt vào trận địa mà ta đã bày sẵn. Khi nước thủy triều đang xuống, Ngô Quyền lệnh cho thủy quân từ các vị trí ở thượng lưu phản công chặn đầu, kết hợp với quân thủy, quân bộ mai phục hai bên bờ sông đánh vào bên sườn đội hình địch. Bị đòn đánh mạnh bất ngờ, quân địch không kịp trở tay, hoảng loạn, quay thuyền tháo chạy hòng thoát ra biển. Nước triều càng ngày càng rút nhanh và chảy xiết, những hàng cọc nhọt hoắt nhổ lên khỏi mặt nước. Từng chiếc thuyền của quân Nam Hán va vào bãi cọc và thủng vỡ tan tành. Trong thời gian ngắn, toàn bộ chiến thuyền của địch bị nhấn chìm, hầu hết quân địch bị tiêu diệt, trong đó có chủ soái Lưu Hoằng Tháo. Chiến thắng nhanh, gọn, triệt để của quân và dân ta trên sông Bạch Đằng khiến vua Nam Hán không kịp ứng phó, tiếp viện mà chỉ có cách duy nhất là “thương khóc, thu nhặt tàn quân còn sót mà rút lui”9 và từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta.
Sơ đồ trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng chống quân Nam Hán, năm 938

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc. Chiến thắng này đã thể hiện rõ tài năng quân sự của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền, đồng thời là thành quả chung của cuộc kháng chiến anh dũng, kiên cường, đầy tính sáng tạo của nhân dân ta.
-------------------------------------
(1) Theo Ngô Thời Sĩ.
(2) Sẽ có bài viết riêng về cuộc cải này của Khúc Hạo.
(3) Con của Khúc Hạo.
(4) Dương Đình Nghệ: là hào trưởng, quê ở làng Ràng (Dương Xá, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa).
(5) Châu Ái: là đợn vị hành cũ của nước ta thời kỳ đó, bao gồm 6 huyện: Cửu Chân, An Thuận, Sùng Bình, Quân Ninh, Nhật Nam, Vô Biên; là địa phận tỉnh Thanh Hoá ngày nay.
(6) Vùng giáp với Quảng Ninh nước ta.
(7) Tương ứng với vùng Bắc Bộ ngày nay.
(8) Dương Phương Lan: bà là vợ của Ngô Quyền.
          (9) Theo Đại Việt sử ký toàn thư trọn bộ, Nxb Thời đại, H. 2011, tr. 119.
Chia sẻ:
Đọc thêm →

Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2018

Khởi nghĩa Bà Triệu

Tiếp nối truyền thống yêu nước sáng ngời của dân tộc, không cam chịu ách đô hộ của quân xâm lược, giữa thế kỷ thứ 3 sau công nguyên, nước ta đã diễn cuộc khởi nghĩa lớn chống ách xâm lược nhà Ngô. Lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa đó là của Bà Triệu.
Bà Triệu tên thật là Triệu Thị Trinh, quê ở huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hoá ngày nay. Anh trai bà tên là Triệu Quốc Đạt là một hào trưởng lớn ở địa phương. Bà là người có sức khoẻ, có chí lớn, có hoài bão đánh giặc ngoại xâm giành lại độc tập, tự do cho dân tộc. Truyền thuyết kể rằng, có lần xuất hiện một coi voi trắng một ngà, phá phách ruộng nương, làng xóm và làm chết người. Triệu Thị Trinh dũng cảm cầm búa nhảy lên đầu giáng xuống huyệt làm con voi lạ gục đầu, xin qui thuận. Khi có người khuyên bà lấy chồng, Bà Triệu đã đáp rằng: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ đâu chịu khom lưng là tì thiếp cho người”.
Minh họa chân dung Bà Triệu cùng nghĩa quân đánh đuổi quân xâm lược

Dưới ách độ hộ của nhà Ngô, năm 19 tuổi, Bà Triệu cùng với anh trai hô hào nhân dân khăp nơi trong vùng nổi dậy khởi nghĩa. Cuộc khởi khởi nghĩa nhanh chóng được nhân dân ta hưởng ứng mạnh mẽ, càng làm tăng thêm uy thế cuộc khởi nghĩa lan rộng khắp nơi. Quá khiếp sợ, nhà Ngô đã giao cho thứ sử Lục Dân dẫn 8000 quân sang nước ta đàn áp. Sau nhiều trận giao tranh ác liệt với giặc, anh trai bà là Triệu Quốc Đạt đã hy sinh. Bà Triệu tiếp tục chỉ huy các nghĩa quân đứng lên chống quân xâm lược. Tuy nhiên do tương quan lực lượng quá chênh lệch, liệu thế không chống nổi, Bà Triệu đã chạy lên núi Tùng Sơn tự vẫn.
“Tùng Sơn nắng quyên mây trời
Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh”
Tuy thất bại, nhưng cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu đã khẳng định tinh thần yêu nước, kiên cường chống giặc ngoại xâm của nhân dân là cội nguồn gốc rễ trường tồn. Tiếp nối tinh thần ấy của Bà Triệu, nhân dân ta lúc bấy giờ tiếp tục nổi dậy khởi nghĩa đánh đuổi quân xâm lược, bất kể triệu đại nào của Trung Quốc, từ Ngô, Tấn, Tống hay Tề, Lương, Đường sau này.

Chia sẻ:
Đọc thêm →

Thứ Năm, 19 tháng 4, 2018

Lý Thường Kiệt - Chiến thắng trên sông Như Nguyệt phần 2

Diễn biến cuộc kháng chiến chống Tống xâm lược:
Cuối năm 1076, quân Tống bắt đầu cuộc viễn chinh xâm lược nước ta. Ngày 10/01/1077, các mũi cánh quân của bộ binh và kỵ binh của quân Tống đã đều có mặt ở bờ bắc chiến tuyến sông Như Nguyệt, chờ thủy binh vào phối hợp tổ chức vượt sông. Tuy nhiên, cánh quân thủy binh của nhà Tống đã bị quân ta do tướng Lý Kế Nguyên chặn đứng ngay ở Vĩnh An. 10 trận chúng tổ chức tấn công vào sông Kênh để lấy đường vào sông Bạch Đằng đều bị quân ta đánh bại, buộc chúng phải đóng quân tại đây chờ đợi tin tức của bộ binh1.
Chưa thấy thủy binh đến, Chánh tướng Quách Quỳ quyết định cho quân tạm thời đóng tại phía bắc sông Như Nguyệt, chuẩn bị tổ chức vượt sông tiến vào thành Thăng Long. Tại đây, Quách Quỳ chia quân làm 2 bộ phận. Bộ phận thứ nhất do Phó tướng Triệu Tiết chỉ huy, đóng ở bờ bắc bến Như Nguyệt (thuộc phạm vi thôn Mai Thượng, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang ngày nay). Bộ phận thứ hai cũng là đại bản doanh của quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy đóng ở bờ đông cách khu đóng quân của Triệu Tiết khoảng 30 km. Giữa 2 cánh quân này, địch bố trí các trại quân nhỏ để tiếp ứng kịp thời khi bị tấn công. Việc đóng quân phòng ngự ở đây là việc bất đắc dĩ của Quách Quỳ, vì bản thân tên tướng này muốn đánh nhanh thắng nhanh như vua Tống đã căn dặn. Tuy nhiên chờ mãi không thấy thủy binh đến, Quách Quỳ quyết định cho toàn bộ cả hai cánh quân tự tổ chức vượt sông bằng bộ binh và kỵ binh.
Cuộc tấn công lần thứ nhất của quân Tống:
Xung phong vượt sông đầu tiên của quân Tống là tướng Miêu Lý. Tướng Miêu Lý dẫn đội quân khoảng gần 2.000 quân dùng cầu phào vượt sông. Chúng nhanh chóng chọc thủng tuyến phòng thủ của thủy quân ta trên bến sông. Thấy thắng thế, tướng Miêu Lý chủ quan, khinh địch, không cần đợi đại quân sang, tự dẫn đội quân của mình tấn công. Khi vừa đến Yên Phụ, Thụy Lôi (Đông Anh – Hà Nội), quân địch bị quân ta vừa chặn đánh phía trước vừa chặn đường rút lui phía sau. Số đông quân giặc bị giết chết, số còn lại cùng chủ tướng Miêu Lý rút chạy về Như Nguyệt, nhưng cầu phao bị cắt đứt lại bị quân ta truy kích, nên đều bị giết chết, chỉ còn chủ tướng và số ít sống sót liều mình mở đường thoát chạy về bên kia sông.
Cuộc tấn công lần thứ hai của quân Tống:
Trong đợt tấn công lần hai này, Quách Quỳ thận trọng hơn. Hắn huy động lực lượng đông, mạnh hơn, đồng thời cho quân đóng bè lớn lần lượt chở từng cánh quân sang, mỗi lần khoảng 500 quân. Cánh quân đầu tiên của địch vừa cập bờ đã xông lên đập phá các rào cản quân sự của ta dựng lên, nhưng ngay sau đó, đã bị quân ta tràn xuống tiêu diệt. Sau đó, từng cánh quân địch vừa cập bến lần nào là bị tiêu diệt lần đó. Như vậy, cuộc tấn công lần thứ hai của quân Tống tiếp tục thảm bại.
Hai lần tấn công hai lần nhận thất bại nặng, Chánh tướng Quách Quỳ không dám nghĩ tự vượt sông nữa mà dứt khoát phải chờ thủy quân tiếp ứng. Hắn ra lệnh: “Ai bàn đánh sẽ chém”. Sau hai thất bại này, quân Tống buộc phải đóng quân phòng ngự bị động chờ thủy quân.
 Quân ta tổ chức tấn công lần thứ nhất:
Sau hai tháng chờ đợi, quân Tống rơi vào tình thế khó khăn, tiến cũng không được, lui thì nhục nhã, mang tội với triều đình. Thời gian càng kéo dài, đại quân Tống càng suy yếu, vì mệt mỏi, thiếu ăn, bệnh tật… Nắm bắt được tình hình quân giặc, cuối mùa xuân năm 1077, Thái úy Lý Thường Kiệt đã kịp thời chỉ đạo các cánh quân tấn công chiến lược đập tan quân địch.
Trên cơ sở phân tích tình hình của quân Tống, Lý Thường Kiệt quyết định chọn cánh quân của Quách Quỳ đóng ở phía đông làm mục tiêu tấn công trước tiên. Thực hiện cuộc tấn công này, Thái uy Lý Thường Kiệt giao trọng trách cho hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn chỉ huy đội quân thuyền với 400 chiếc chở 2 vạn quân từ Vạn Xuân vượt sông Như Nguyệt tấn công vào đại quân của Quách Quỳ. Quánh Quỳ và toàn bộ tướng cao cấp như Yên Đạt, Trương Thế Cự, Vương Mãn, Lý Tường, Diên Chủng… đều phải ra chặn đánh. Lúc đầu quân ta giành thắng lợi, tiến sâu vào lòng địch gây cho chúng nhiều tổn thất. Tuy nhiên, sau đó quân địch gồm bộ binh và kỵ binh tràn ra càng nhiều, cuộc tấn công của ta thất bại, buộc phải rút lui. Hai hoang tử Hoằng Chân và Chiêu Văn đã anh dũng hy sinh. Mục đích của trận tập kích lần này của quân ta do Thái uý Lý Thương Kiệt đề ra không đơn thuần nhằm tiêu diệt sinh lực địch để có thể giành thắng lợi quyết định mà điều đặc biệt quan trọng là nhằm thu hút sự chú ý, tập trung của toàn bộ quân địch về hướng cánh quân Quách Quỳ để tạo thời cơ, điều kiện thuận lợi cho mũi tiến tấn công sau đó do chính Thái uý Lý Thường Kiệt chỉ huy giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định buộc quân địch phải kết thúc chiến tranh.

Cuộc tấn công lần thứ hai của quân ta:
Giữa lúc các cánh quân địch còn đang lo đối phó với thủy quân của ta và đang hí hửng chiến thắng, thì ngay đêm hôm đó, Thái úy Lý Thường Kiệt tổ chức tấn công vào cánh quân địch do tướng Triệu Tiết chỉ huy. Bị tập kích bất ngờ, quân địch hoảng loạt chống cự. Quân ta ào ạt tiến công, tiêu diệt 5 đến 6 phần quân giặc, giành thắng lợi hoàn toàn.
Thắng lợi của trận tập kích lần này đã giáng một đòn quyết định vào kế hoạch xâm lược của quân Tống, làm cho thế trận phong ngự của địch ở bờ bắc sông Như Nguyệt bị lung lay, uy hiếp. Quách Quỳ và các tướng dưới trướng phải than thở rằng: “số quân đem đi 10 vạn, phu 20 vạn, nay đã chết quá nửa, số còn lại thì ốm đau, lương ăn đã cạn”. Chiến thắng này của quân ta đã đẩy quân Tống vào cảnh thế cùng lực liệt, nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn đang rình rập họ.
Biết rõ ý chí xâm lược của quân Tống đã bị đè bẹp, Lý Thương Kiệt đã chủ động đưa ra đề nghị giảng hòa, thực chất là mở ra lối thoát cho quân xâm lược. Đó là cách kết thúc chiến tranh mềm dẻo như Lý Thường Kiệt đã từng nói: “dùng biện sĩ bàn hòa, không nhọc tướng tá, khỏi tổn thất xương máu mà bảo toàn được tôn miếu”.
Tháng 3/1077, quân Tống rút lui khỏi nước ra trong cảnh hỗn loạn. Vẫn sợ quân ta tập đích, Quách Quỳ đã cho quân rút lui vào ban đêm. Vì quá lo sợ, chúng chen lấn, dẫm đạp lên nhau đi trước. Quân Tống rút đến đâu, Lý Thường Kiệt cho quân tiến theo lấy lại đất đến đấy, sau đó mau chóng thu hồi các châu Môn, Quang Lang, Tô Mậu, Tư Lang, Quảng Nguyên…
Chiến thắng trên sông Như Nguyệt là thắng lợi oanh liệt của trận quyết chiến chiến lược có ý nghĩa quyết định để kết thúc chiến tranh. Chiến công này đã buộc các đời vua Tống tiếp theo trong khoảng 200 năm không dám có ý định xâm lược nước ta lần nữa.

(Hết)

------------------------------------
(1) Mãi sau này được lệnh của triều đình, cánh thủy binh này mới biết cuộc xâm lược đã kết thúc và thất bại.
Chia sẻ:
Đọc thêm →

Lý Thường Kiệt - Chiến thắng trên sông Như Nguyệt phần 1

Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược của  nhân dân ta dưới triều Lý là một trong những chiến công chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Chiến thắng đó là đập tan âm mưu xâm lược của quân Tống, góp phần bảo vệ vững trắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.
Hoàn cảnh – âm mưu xâm lược của quân Tống:
Trước đó, nhà Tống đã từng xâm lược nước ta (981), nhưng bị quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn tập tan, buộc chúng phải tháo chạy về nước, từ bỏ âm mưu xâm lược. Sang thế kỷ thứ XI, nhà Tống tiếp tục âm mưu xâm lược nước ta lần thứ 2, nhằm vừa rửa nhục thua lần trước, vừa để chiếm, mổ rộng đất đai, đồng thời đánh lạc hướng dư luận các cuộc đấu tranh, nổi dậy của nhân dân trong nước và tăng uy thế nước nhà trước sự uy hiếp các nước Liêu, Hạ xung quanh. Sử Tống từng ghi: “Nếu thắng, thế Tống sẽ tăng, các nước Liêu, Hạ sẽ phải kiêng nể”.
Sự chuẩn bị xâm lược của nhà Tống:
Xâm lước nước ta lần này được nhà Tống chuẩn bị rất chu đáo và kỹ lưỡng. Nhà Tống cho xây dựng nhiều căn cứ quân sự, hậu cần vùng biên giới giáp vùng đông bắc nước ta. Chúng xây dựng thành Ung Châu (Quảng Tây) thành căn cứ xâm lược trọng yếu và tăng cường bắt lính, tập trận, tích trữ lương thảo; ở mặt nam của thành, chúng bố trí 5 trại quân dày đặc. Ngoài ra, để phục vụ cho dã tâm xâm lược, nhà Tống còn xảo quyệt tìm cách dụ dỗ, mua chuộc một số tù trưởng dân tộc miền núi của ta làm nội gián để chia rẽ, phá vỡ khối đại đoàn kết của nhân dân ta.
Sự lớn mạnh và sự chuẩn bị chống xâm lược của quân – dân ta dưới triều Lý
Sau thời kỳ Bắc thuộc, nước ta triều Lý có sự lớn mạnh về mọi mặt. Chính trị ổn định; kinh tế - văn hóa phát triển rực rỡ; quân sự được củng cố, tăng cường lớn mạnh. Quân đội chủ lực của triều đình gồm cấm quân (quân đội bảo vệ kinh thành), quân các lộ (quân canh giữ các địa phương) chia ra làm bộ binh, kỵ binh, tượng binh, thủy binh.  Dân đinh trai trang từ 10 – 20 tuổi đều phải đi lính hai năm; từ 20 tuổi trở lên triều đình cho về nhà làm ruộng, nhưng khi cần thiết buộc phải nhập ngũ tòng quân đánh giặc. Đó chính là chính sách “ngụ binh ư nông” (gửi binh ở nhà nông) của triều đình nhằm tăng cường quân lực cho nhà nước nhưng vẫn đảm bảo được sản xuất, cắt giảm chi phí về quân sự cho trung ương. Ngoài ra, các vương hầu, quý tộc và một số tù trưởng miền núi được phép có quân đội riêng dưới sự điều động của nhà nước. Các trang thiết bị phục vụ quân đội nước ta thời kỳ này cũng đa dang và hiện đại hơn. Ngoài giáo, mác, kiếm, thương, cung, nỏ… còn có máy bắn đá…
Về nhân sự, triều Lý thời điểm này có sự phục vụ của nhiều tướng giỏi, tiêu biểu phải kể đến danh tướng Lý Thường Kiện. Lý Thường Kiệt (1019 -1105) xuất thân trong gia đình võ tướng, quê ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội ngày nay. Ông có lòng yêu nước sâu sắc, là một nhà chính trị, quân sự tài ba. Đời Lý Thánh Tông (1054 – 1072), ông giữ chức Kiểm hiệu thái bảo; đời Lý  Nhân Tông (1072 -1128), ông giữ chức Phụ quốc thái uý tương đương tể tướng. Lý Thường Kiệt có nhãn quan chính trị, quân sự sắc bén. Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng tình hình mạnh yếu của đất nước và nhà Tống, ông đã táo bạo đề ra chủ trương: “Ngồi đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc”. Chủ trương “Tiên phát chế nhân” của ông đã biểu thị rõ tư tưởng quân sự sáng tạo, tích cực, lấy tiến công để tự vệ một cách chủ động.
Trên cơ sở đó, cuối năm 1075, lực lượng quân đội nước ta với khoảng 10 vạn quân dưới sự chỉ huy trực tiếp của Lý Thường Kiệt đã tấn công vào căn cứ quân sự trung tâm của nhà Tống ở Ung Châu (Quảng Tây). Tháng 01/1076, quân ta bao vây thành Ung Châu. Đến ngày 01/3/1076, toàn bộ thành trị ở đây của quân Tống bị quân ta chiếm giữ, phá huỷ toàn bộ nhằm chặn các đường tiếp viện sau này của nhà Tống. Hoàn thành xong mục tiêu đề ra, Lý Thường Kiệt rút toàn bộ quân về nước.
Chủ trương của nhà Tống:
Xâm lược nước ta lần này, vua Tống cử Quách Quỳ làm Chánh tướng và Triệu Tiết là Phó tướng chỉ huy 10 vạn quân, 1 vạn ngựa và 20 vạn phu vận chuyển quân lương cùng đội thuỷ binh sang hộ tống đường thuỷ. Như vậy, tổng số quân Tông sang xâm lược nước ta lên đến trên 30 vạn quân. Trong đó, bộ binh và kỵ binh từ Ung Châu tràn vào nước qua vùng biên giới đông bắc; còn thuỷ binh từ cửa Khâm Châu và Liêm Châu vượt biển tiến vào sông Bạch Đằng để phối hợp với bộ binh. Nhìn chung, lực lượng quân Tống lần này rất mạnh: có nhiều kinh nghiệm tác chiến, lực lượng đông cùng các loại vũ khí sát thương cao như máy bắn đá, thuốc súng, hỏa tiễn (pháo thăng thiên)…
Điểm yếu của quân Tống khi cuộc xâm lược nước ta lần này là thực hiện trong thế hoàn toàn bị động. Bởi những lý do sau: nhà Tống không thể huy động một lực lượng nhiều thêm cho cuộc xâm nước ta và ít có khả năng tiếp viện khi đang phải loay hoay đối phó các nước Liêu, Hạ có thế đột nhập đánh chiếm; đồng thời không thể thực hiện cuộc hành binh đánh chiếm dài ngày trên đất nước ta, buộc phải đánh nhanh thắng nhanh.
Chủ trương quân ta:
Trên cơ sở nắm rõ lực lượng của quân Tống, Lý Thường Kiệt chủ trương không đem toàn bộ quân ra quyết chiến trực diện ngay từ đầu, cũng không lui quân sâu phòng ngự chiến lược. Với sự cân nhắc, phân tích kỹ càng điểm yếu, điểm mạnh của quân xâm lược và tình hình thực tế của đất nước, Lý Thường Kiệt đã chủ trương lập chiến tuyến chặn đánh, phòng ngự ở nơi có lợi thế nhất nhằm chặn bước tiến quân của giặc, bảo vệ vững chắc kinh thành và nơi trọng yếu; chủ động tiêu diệt các cuộc phản công của địch buộc chúng phải bị động phòng ngự, dần dần rơi vào thế co cụm, giam hãm, bị tiêu hao, tổn thất… trên cơ sở đó, quân ta tổ chức tổng phản công tiêu diệt quân giặc, giành thắng lợi. Đây là một chủ trương đúng đắn và sáng tạo, độc đáo thể hiện nghệ thuật chiến tranh nhân dân của dân tộc ta.
Tượng đài Thái úy Lý Thường Kiệt

Đề thực hiện chủ trương trên, trước hết quân ta phải nhịp nhàng tiêu diệt được hai cánh quân của địch: cánh quân thứ nhất là bô binh và kỵ binh, cánh quân thứ hai là thủy binh. Trong đó, tinh nhuệ và chủ yếu là bộ binh và kỵ binh; còn thủy binh chỉ đóng vai trò phối hợp, tổ chức vượt sông cho bộ binh (cánh quân thủy binh của nhà Tống sẽ từ Khâm Châu vào Vĩnh An (Móng Cái – Quảng Ninh), sau đó đi thuyền theo sông Đông Kênh vào sông Bạch Đằng lên Vạn Xuân rồi vào Thăng Long. Cánh quân bộ binh và kị binh của địch sẽ từ Ung Châu tràn qua biên giới đông bắc nước ta tấn công vào kinh thành Thăng Long qua 3 con đường chính. Nhưng tất các con đương đó đều phải vượt qua sông Cầu, trong đó khúc sông từ nga ba sông Cà Lồ và sông Cầu trở về xuôi là sông Như Nguyệt có thể qua lại dễ dàng hơn, sau này đã diễn trận quyết chiến chiến lược giữa ta và địch trên sông Như Nguyệt này. Qua sông Như Nguyệt có 2 con đường bộ tiến về Thăng Long). Lý Thường Kiệt đã giao nhiệm vụ cho tướng Lý Kế Nguyên chỉ huy một lực lượng thủy binh đóng tại sông Đông Kênh với mục đích chính là chặn, cắt đứt hoàn toàn đường tiến quân của thủy binh địch vào đất liền tiếp ứng cho bộ binh. Để chặn đánh cánh quân bộ binh và kỵ binh, trên cơ sở nắm rõ địa hình, địa thế và các đường tấn công vào Thăng Long, Lý Thường Kiệt đã chọn vị trí lập chiến tuyến chống giặc ở bờ nam sông Như Nguyệt. Toàn bộ quân ta (cả bộ binh và thủy binh khoảng 6 vạn quân) được Lý Thường Kiệt bố trí như sau: một bộ phận bộ binh được đóng thành từng trại quân ở những vĩ trí xung yếu trên chiến tuyến, trong đó có 3 trại quân quan trọng đóng ở Như Nguyệt, Thị Cầu (thành phố Bắc Ninh ngày nay), Phấn Động (xã Tam Đa – huyện Yên Phong – Bắc Ninh) (mỗi trại quân đều có thủy binh phối hợp, nhưng đại bộ phận thủy binh của ta đóng ở Vạn Xuân (Phả Lại); còn đại bộ phận bộ binh của ta do Lý Thường Kiện trực tiếp chỉ huy đóng ở Thiên Đức nằm ở phía sau chiến tuyến. Đại quân của Lý Thường Kiệt đóng vai trò trọng yếu, có thể khống chế các con đường tiến về Thăng Long, tiếp viện cho các cánh quân khác, phản công đánh bại các cuộc tiến công của địch sau này.
    Chủ trương quân sự chống Tống nói chung và việc lập chiến tuyến trên sông Như Nguyệt nói riêng do Lý Thường Kiệt đề ra là rất đúng đắn, phù hợp và sáng tạo, thể hiện rõ ý chí, quyết tâm của dân tộc kiên quyết chặn đứng các đường tấn công tiến về Thăng Long của quân Tống. Các vị trí trên chiến tuyến được bố trí có chiều rộng, có chiều sâu, có trọng điểm, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cánh quân. Chiến tuyến Như Nguyệt còn thể hiện một chủ trương quân sự phòng ngự chủ động, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chế mạnh, khoét sâu những điểm yếu, hạn chế, khó khăn của địch, buộc đối phương phải bị động đối phó, làm thất bại chiến lược tấn công của chúng, từ đó quân ta chủ động phản công tiêu diệu từng cánh quân giặc.
(Còn tiếp...)
Chia sẻ:
Đọc thêm →