Diễn biến cuộc kháng chiến chống
Tống xâm lược:
Cuối năm 1076, quân Tống bắt đầu cuộc
viễn chinh xâm lược nước ta. Ngày 10/01/1077, các mũi cánh quân của bộ binh và kỵ
binh của quân Tống đã đều có mặt ở bờ bắc chiến tuyến sông Như Nguyệt, chờ thủy
binh vào phối hợp tổ chức vượt sông. Tuy nhiên, cánh quân thủy binh của nhà Tống
đã bị quân ta do tướng Lý Kế Nguyên chặn đứng ngay ở Vĩnh An. 10 trận chúng tổ
chức tấn công vào sông Kênh để lấy đường vào sông Bạch Đằng đều bị quân ta đánh
bại, buộc chúng phải đóng quân tại đây chờ đợi tin tức của bộ binh1.
Chưa thấy thủy binh đến, Chánh
tướng Quách Quỳ quyết định cho quân tạm thời đóng tại phía bắc sông Như Nguyệt,
chuẩn bị tổ chức vượt sông tiến vào thành Thăng Long. Tại đây, Quách Quỳ chia
quân làm 2 bộ phận. Bộ phận thứ nhất do Phó tướng Triệu Tiết chỉ huy, đóng ở bờ
bắc bến Như Nguyệt (thuộc phạm vi thôn Mai Thượng, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa,
tỉnh Bắc Giang ngày nay). Bộ phận thứ hai cũng là đại bản doanh của quân Tống
do Quách Quỳ chỉ huy đóng ở bờ đông cách khu đóng quân của Triệu Tiết khoảng 30
km. Giữa 2 cánh quân này, địch bố trí các trại quân nhỏ để tiếp ứng kịp thời khi bị tấn công. Việc đóng quân phòng ngự ở đây
là việc bất đắc dĩ của Quách Quỳ, vì bản thân tên tướng này muốn đánh nhanh thắng
nhanh như vua Tống đã căn dặn. Tuy nhiên chờ mãi không thấy thủy binh đến,
Quách Quỳ quyết định cho toàn bộ cả hai cánh quân tự tổ chức vượt sông bằng bộ
binh và kỵ binh.
Cuộc tấn công lần thứ nhất của quân Tống:
Xung phong vượt sông đầu tiên của
quân Tống là tướng Miêu Lý. Tướng Miêu Lý dẫn đội quân khoảng gần 2.000 quân
dùng cầu phào vượt sông. Chúng nhanh chóng chọc thủng tuyến phòng thủ của thủy
quân ta trên bến sông. Thấy thắng thế, tướng Miêu Lý chủ quan, khinh địch, không
cần đợi đại quân sang, tự dẫn đội quân của mình tấn công. Khi vừa đến Yên Phụ,
Thụy Lôi (Đông Anh – Hà Nội), quân địch bị quân ta vừa chặn đánh phía trước vừa
chặn đường rút lui phía sau. Số đông quân giặc bị giết chết, số còn lại cùng chủ
tướng Miêu Lý rút chạy về Như Nguyệt, nhưng cầu phao bị cắt đứt lại bị quân ta
truy kích, nên đều bị giết chết, chỉ còn chủ tướng và số ít sống sót liều mình
mở đường thoát chạy về bên kia sông.
Cuộc tấn công lần thứ hai của quân Tống:
Trong đợt tấn công lần hai này,
Quách Quỳ thận trọng hơn. Hắn huy động lực lượng đông, mạnh hơn, đồng thời cho
quân đóng bè lớn lần lượt chở từng cánh quân sang, mỗi lần khoảng 500 quân. Cánh
quân đầu tiên của địch vừa cập bờ đã xông lên đập phá các rào cản quân sự của
ta dựng lên, nhưng ngay sau đó, đã bị quân ta tràn xuống tiêu diệt. Sau đó, từng
cánh quân địch vừa cập bến lần nào là bị tiêu diệt lần đó. Như vậy, cuộc tấn
công lần thứ hai của quân Tống tiếp tục thảm bại.
Hai lần tấn công hai lần nhận thất
bại nặng, Chánh tướng Quách Quỳ không dám nghĩ tự vượt sông nữa mà dứt khoát phải
chờ thủy quân tiếp ứng. Hắn ra lệnh: “Ai
bàn đánh sẽ chém”. Sau hai thất bại này, quân Tống buộc phải đóng quân
phòng ngự bị động chờ thủy quân.
Quân ta tổ chức tấn công lần thứ
nhất:
Sau hai tháng chờ đợi, quân Tống
rơi vào tình thế khó khăn, tiến cũng không được, lui thì nhục nhã, mang tội với
triều đình. Thời gian càng kéo dài, đại quân Tống càng suy yếu, vì mệt mỏi, thiếu
ăn, bệnh tật… Nắm bắt được tình hình quân giặc, cuối mùa xuân năm 1077, Thái úy
Lý Thường Kiệt đã kịp thời chỉ đạo các cánh quân tấn công chiến lược đập tan
quân địch.
Trên cơ sở phân tích tình hình của
quân Tống, Lý Thường Kiệt quyết định chọn cánh quân của Quách Quỳ đóng ở phía
đông làm mục tiêu tấn công trước tiên. Thực hiện cuộc tấn công này, Thái uy Lý
Thường Kiệt giao trọng trách cho hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn chỉ huy đội
quân thuyền với 400 chiếc chở 2 vạn quân từ Vạn Xuân vượt sông Như Nguyệt tấn
công vào đại quân của Quách Quỳ. Quánh Quỳ và toàn bộ tướng cao cấp như Yên Đạt,
Trương Thế Cự, Vương Mãn, Lý Tường, Diên Chủng… đều phải ra chặn đánh. Lúc đầu
quân ta giành thắng lợi, tiến sâu vào lòng địch gây cho chúng nhiều tổn thất.
Tuy nhiên, sau đó quân địch gồm bộ binh và kỵ binh tràn ra càng nhiều, cuộc tấn
công của ta thất bại, buộc phải rút lui. Hai hoang tử Hoằng Chân và Chiêu Văn
đã anh dũng hy sinh. Mục đích của trận tập kích lần này của quân ta do Thái uý Lý Thương Kiệt đề ra không đơn thuần nhằm tiêu diệt sinh lực địch để có thể giành thắng lợi quyết định mà điều đặc biệt quan trọng là nhằm thu hút sự chú ý, tập trung của toàn bộ quân địch về hướng cánh quân Quách Quỳ để tạo thời cơ, điều kiện thuận lợi cho mũi tiến tấn công sau đó do chính Thái uý Lý Thường Kiệt chỉ huy giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định buộc quân địch phải kết thúc chiến tranh.
Cuộc tấn công lần thứ hai của quân ta:
Giữa lúc các cánh quân địch còn
đang lo đối phó với thủy quân của ta và đang hí hửng chiến thắng, thì ngay đêm
hôm đó, Thái úy Lý Thường Kiệt tổ chức tấn công vào cánh quân địch do tướng Triệu
Tiết chỉ huy. Bị tập kích bất ngờ, quân địch hoảng loạt chống cự. Quân ta ào ạt
tiến công, tiêu diệt 5 đến 6 phần quân giặc, giành thắng lợi hoàn toàn.
Thắng lợi của trận tập kích lần
này đã giáng một đòn quyết định vào kế hoạch xâm lược của quân Tống, làm cho thế
trận phong ngự của địch ở bờ bắc sông Như Nguyệt bị lung lay, uy hiếp. Quách Quỳ
và các tướng dưới trướng phải than thở rằng: “số quân đem đi 10 vạn, phu 20 vạn, nay đã chết quá nửa, số còn lại thì
ốm đau, lương ăn đã cạn”. Chiến thắng này của quân ta đã đẩy quân Tống vào
cảnh thế cùng lực liệt, nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn đang rình rập họ.
Biết rõ ý chí xâm lược của quân
Tống đã bị đè bẹp, Lý Thương Kiệt đã chủ động đưa ra đề nghị giảng hòa, thực chất
là mở ra lối thoát cho quân xâm lược. Đó là cách kết thúc chiến tranh mềm dẻo
như Lý Thường Kiệt đã từng nói: “dùng biện
sĩ bàn hòa, không nhọc tướng tá, khỏi tổn thất xương máu mà bảo toàn được tôn
miếu”.
Tháng 3/1077, quân Tống rút lui
khỏi nước ra trong cảnh hỗn loạn. Vẫn sợ quân ta tập đích, Quách Quỳ đã cho
quân rút lui vào ban đêm. Vì quá lo sợ, chúng chen lấn, dẫm đạp lên nhau đi trước.
Quân Tống rút đến đâu, Lý Thường Kiệt cho quân tiến theo lấy lại đất đến đấy,
sau đó mau chóng thu hồi các châu Môn, Quang Lang, Tô Mậu, Tư Lang, Quảng
Nguyên…
Chiến thắng trên sông Như Nguyệt
là thắng lợi oanh liệt của trận quyết chiến chiến lược có ý nghĩa quyết định để
kết thúc chiến tranh. Chiến công này đã buộc các đời vua Tống tiếp theo trong
khoảng 200 năm không dám có ý định xâm lược nước ta lần nữa.
(Hết)
(Hết)
------------------------------------
(1) Mãi sau này được lệnh của triều đình, cánh thủy binh này mới biết cuộc xâm lược đã kết thúc và thất bại.
Các chiến công vang dội nhưng rất tiếc chưa thấy dưa lên điện ảnh đẻ quảng bá.
Trả lờiXóa